.

.

Thứ Bảy, 9 tháng 1, 2010

Văn hóa chửi mắng

Văn hoá chửi mắng có văn hoá

của trí thức

http://adidaphat.info/resources/QuanTheAmBoTat.jpg


(TNTT>) Nhân loại không mấy người không chửi mắng hoặc bị chửi mắng. Chửi mắng, rủa sả là thứ ngôn ngữ không thiếu trong cuộc sống, trong văn chương của mọi dân tộc. Vấn đề là xác định được ranh giới giữa văn hóa và phi văn hóa trong chửi mắng. TNTT> mở chuyên đề thú vị này để cùng bạn đọc đàm luận và tranh cãi.

Chửi là la mắng, là nói những lời thô tục, cay độc để làm nhục người khác”, đó là theo từ điển tiếng Việt thông dụng. Cá nhân tôi cho rằng đôi khi cũng cần phải diễn đạt ngôn từ một cách mạnh mẽ, biểu cảm – đôi khi cũng cần phải chửi. Và rõ ràng khi không có đòn để đỡ, khi phải cam chịu ẩn nhẫn, khi yếu thế không làm được gì đối thủ, người ta có thể phải chửi. Chửi cho bõ tức. Chửi là cần thiết, vấn đề là chửi cũng cần có văn hóa, làm cho đối phương thấy nhục cũng phải có văn hóa.

Nhiều người tự hào rằng ở Việt Nam có hẳn một cái gọi là văn hóa chửi – có nghĩa là người Việt chửi có vần có vè, có ve có vẩy; chửi có bài bản, lớp lang. Nếu văn hóa được định nghĩa như là những giá trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra trong lịch sử hay lối sống, cách ứng xử có trình độ cao thì quả thật chửi cũng là một nét văn hóa.

Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm có đoạn: “Với lối chửi có vần điệu, có cấu trúc chặt chẽ, người Việt Nam có thể chửi từ giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác mà không hề nhàm chán. Đó là một nghệ thuật độc nhất vô nhị mà không một dân tộc nào trên thế giới có được”. Nghệ thuật chửi Việt Nam chủ yếu xuất phát từ miền Bắc do nếp sống cộng đồng tình cảm, ưa tế nhị và để tránh cái thô tục không cần thiết, người ta có hàng trăm cách, trăm lối diễn tả xa xôi, bóng gió được coi là tao nhã mà vẫn làm đối thủ tức đến hộc máu mồm. Bên cạnh chửi tục, người ta còn có lối nói mát, nói mỉa, nói xéo, chê bai cũng độc địa kinh khủng mà người ta cũng gộp luôn vào, mở rộng thuật ngữ chuyên “chửi”. Ở đây cũng cần phân biệt giữa “chửi thề” và “chửi”: chửi thề là văng tục, chửi vô tội vạ, chửi bất cứ lúc nào - kể cả lúc vui, chửi mà không có dụng ý bôi nhọ, không nhằm đối tượng nào; chửi thường nhắm đích danh người nào đó và thường trong lúc giận dữ, có dụng ý.

Trong quân đội xưa còn có một loại quân đặc biệt chuyên chửi mắng, đó là các "mạ thủ". Khổng Minh Gia Cát Lượng từng đích thân dùng thứ vũ khí này, ông đã dùng lời đanh đá cay độc mắng chết Tư Đồ Vương Lãng ngay tại trận.

Ngày xưa, chửi được coi là vũ khí của người nghèo bất khuất, người yếu bất khuất. Những kẻ thống trị có đầy đủ vũ khí, sức mạnh, còn những người bị trị luôn bị tước đoạt đến trần trụi cả về vật chất lẫn tinh thần, nhưng không phải vì thế mà kẻ bị trị chịu yên, họ biết dùng đến vũ khí độc tôn của mình để chống lại những cái trái với luân thường, trái với pháp luật, trái đạo đức. Mà đúng là “chửi” là vũ khí độc tôn của kẻ nghèo, khi trời dường như phú cho họ cơ quan phát thanh rất tốt, có thể vang khắp xóm cùng quê, có thể chửi từ giờ này sang giờ khác. Chửi, với các bài chửi điển hình như bài “Chửi đứa bắt gà” kéo dài hàng giờ, hàng ngày, dù kẻ bắt gà chắc gì đã mang gà ra trả, nhưng cái việc chửi vẫn phải được tiến hành, trước tiên để bõ tức, để giải tỏa tâm lý, sau đó là để phòng ngừa, để đánh thức lương tâm, đánh thức và nuôi dưỡng công lý. Có lẽ, đây cũng là một biểu hiện văn hóa trong cái sự chửi.

Thật ra thì văn hóa chửi cũng không phải là đặc sản quá độc đáo của người Việt. Bộ sử thi tiểu thuyết hoành tráng Tam quốc chí đã kể rất kỹ về chuyện khi dàn trận đánh nhau các bên rất hay sử dụng một loại quân khá đặc biệt, đấy là những "mạ thủ". "Mạ thủ" thường chọn những người giọng tốt, ngữ điệu chắc chắn phải cong cớn, đứng ngay ở hàng đầu gào to những lời xỉ mắng đối phương. Khổng Minh Gia Cát Lượng của nhà Thục đã từng đích thân đanh đá mắng chết Tư đồ Vương Lãng của nhà Ngụy. Ở Ukraine hiện tại có cả cuộc thi chửi được tổ chức hàng năm có mục đích để thanh niên làm quen với văn hóa chửi của dân tộc và nâng cao tình yêu nước. Cuộc thi chửi được tiến hành theo hình thức hai người bước ra sàn đấu, lần lượt chửi nhau và bất cứ ai muốn đều có thể tham gia. Người dự thi có thể trích dẫn những câu nói từ văn học cổ Ukraine bao hàm các câu chửi rủa đậm màu sắc dân tộc. Người thắng cuộc là người có vốn từ vựng phong phú.

Cách chửi thay đổi rất nhiều, tùy theo vùng miền văn hóa. Ngay cả ở Việt Nam, người Bắc có cách chửi khác người Trung, người Trung chửi khác người Nam. Tuy nhiên, ngày nay, nhiều khi người ta quá lạm dụng "nghệ thuật" chửi, công cụ chửi, người ta chửi chỉ cốt để chứng tỏ mình chửi giỏi, người ta nói mát, nói mỉa, nói xéo người khác dù người đó chẳng làm gì mình – chỉ cốt để sướng miệng mà không hề nghĩ đến tác dụng độc địa của “lời nói-đọi máu”. Bàn về văn hóa chửi sẽ luôn là một đề tài thú vị và chắc hẳn cũng sẽ gây nhiều tranh cãi.

Nguyễn Quang Lập (nhà văn)

http://www.socola.vn/photos/Image/2009/Giaitri/Thang2/11/1002.jpg

"Tôi thấy ở xứ mình vẫn chưa có văn hóa chửi thật sự. Chửi ở đây là chửi một cách văn minh, không phải là dùng những từ ngữ thô tục, kém văn hóa để chứi bới nhau, mà là sử dụng lý lẽ sắc bén để nói lên sự thật. Điều này thì cũng tồn tại ở nước ta lâu rồi, các cụ nhà văn nhà thơ nổi tiếng ngày xưa như Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tú Mỡ… chửi những người tham ô tham nhũng qua chính ngòi bút của mình rất hay đó chứ. Tôi nhớ ngày bé được nghe các bà ngoài hàng chợ Bắc chửi cũng rất thích, vì họ chửi nghe đúng, sâu và sắc bén lắm. Các nhà văn của ta bây giờ cũng chưa lưu tâm đến chuyện này, thường thì bất bình chuyện gì thì lên tiếng chửi vậy thôi, tùy hứng, dẫn đến người bị chửi cũng không thấy thuyết phục...".

Lê Minh Quốc (nhà thơ)

"Dân tộc Việt Nam vốn nhiều chữ, giàu chữ, thâm thúy nên khi ghét, giận, tức ai đó đều có thể chửi một cách có vần có vè, và đầy “hoa mỹ”, ví như cái chửi bà già mất gà của xứ Bắc hoặc cách chửi của người Huế. Nhưng bản thân tôi nghĩ không nên khen ngợi cách chửi này. Với tôi, một bó lý không bằng một tí tình, khi chửi người ta tức là mình đã dùng lý rồi. Tôi thích những cách chửi như kiểu của Hồ Xuân Hương hơn".

Chửi trong văn học

"Bớ làng trên xóm dưới, bớ láng giềng láng tỏi … bên sau bên trước, bên ngược bên xuôi! Tôi có con gà mái xám mới ghẹ ở, nó mới lạc ban sáng mà thằng nào con nào, đứa ở gần mà qua, đứa ở xa mà lại, nó dang tay mặt, nó đặt tay trái, nó bắt mất của bà, thì buông tha thả nó ra, có đứa nào trót nhỡ tay đánh cắp con gà mái ghẹ của bà thì hãy banh lỗ tai vạch lỗ nhĩ lên mà nghe bà chửi đây này…

Chém cha đứa bắt gà nhà bà, chiều hôm qua bà cho nó ăn nó vẫn còn. Sáng hôm nay con bà gọi nó nó vẫn còn, mà bây giờ nó đã bị bắt mất. Mày muốn sống mà ở với chồng với con mày, thì buông tha thả nó ra cho nó về nhà bà, nhược bằng mày chấp chiếm, thì bà đào mả thằng tam tứ đại nhà mày ra, bà khai quật bật săng thằng ngũ đại lục đại nhà mày lên. Ới cái thằng chết đâm, cái con chết xỉa kia, mày mà giết gà nhà bà thì một người ăn chết một, hai người ăn chết hai, ba người ăn chết ba. Mày xuống âm phủ thì quỷ sứ thần linh rút ruột ra... ".

(Đoạn chửi của bà già mất gà, trích Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan)

Trong Daghextan của tôi, nhà thơ Nga Raxun Gamzatop đã dành hẳn một chương có tên Ngôn ngữ để nói về chuyện chửi rủa ở những làng quê Daghextan. Ông viết “Mỗi làng quê đều có riêng những lời chửi rủa. Có lời rủa trói tay anh bằng những sợi dây vô hình; có lời rủa đẩy anh vào quan tài; có lời rủa làm mắt anh rơi vào đĩa canh đang húp, có lời rủa làm mắt anh lăn xuống khe sâu qua những tảng đá lởm chởm”. Dưới đây là một vài lời chửi rủa mà ông ghi lại:

- Cầu trời nó bắt đi cái người biết dạy con mày học nói! Cầu trời nó bắt của con mày đi cái người mà con mày có thể dạy nói!

- Cầu cho lưỡi mày khô đi, cho mày quên tên người yêu, cho người mày có việc cần gặp không hiểu lời mày nói. Cầu cho mày quên lời chào làng quê khi mày đi xa trở về, cầu cho gió lùa vào miệng mày khi mày rụng hết răng…

Phan An



Chửi theo kiểu bình dân học vụ .

http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200607/original/images1048387_10.jpg

http://www.spnttw.edu.vn/admin/upload/3081119045633.jpg

Mẹ đốp xách váy đụp la cà làng trên xóm dưới , lời ngọc , lời vàng , lời kim cương của thằng blog có tên Mithuatviet , Đốp đây vén váy bỏ vào túm lại ., đem ra chuồng chồ tụt váy giũ cái “đoạch” . Mẹ sư cha cái lũ cá tra , cá ba sa nó nhảy , nó đớp , nó hít , nó nhai …đéo chừa cả sợi “lông” mẹ Đốp đánh rơi . Đốp vác mõ đi la làng “Chiềng làng chiềng chạ , thượng hạ tây Đông …Ôí thằng chết đâm , con chết xỉa kia , mày dám hỗn lão với Bà à ?” . Này nhé , bà bảo cho mà biết , Mày liệu liệu thần hồn nhé , động chạm đến danh dự của bà , cả họ ba đời nhà mày ra nhặt răng đấy con !

Đến nước này thì Bà cũng nói cho mày biết nhá . Bà với blog Laoquangthau thực ra cũng chỉ là những người bạn trên blog . Laoquangthau chưa lần nào bảo Bà vào blog mày xem cả . Vào blog laoquangthau , thấy mày “Lói” về dân Hà Nội hay quá , bà cũng phải công nhận là “Hà Nội” giờ thế đấy . Thấy tên Mithuatviet , có vẻ như một nghệ sĩ , bà cũng tò mò vào nhà mày hỏi thăm chơi . Mới đầu nói chuyện với mày , mày đã nói làm “sốc” óc bà , bà vẫn ngọt ngào …nhưng mày cứ làm ra vẻ ta đây là người hiểu biết , lên mặt dậy đời bà . Rồi thế là thử lòng mày , bà cũng dở thói văng tục với mày xem sao ? Thế là “đéo” xem mày có dám chửi nhau với bà không ? Mày thừa nhận , con người mày chua ngoa, bà công nhận điều đó . Nhưng bà đã nói trước với mày , bà là người ít học , nhà nghèo , học đến lớp 1 thì cô giáo mất nên bà “đéo” đi học nữa . Và từ đó trở thành người “mất học” có thể gọi là “mất dạy” luôn . Chứ bà có khoe khoang với mày là bà học cao . hiểu nhiều đâu mà mày nói bà “có học” lại ăn nói như vô học . Còn mày , sao mày không nhìn lại bản thân mày xem “tiên trách kỷ hậu trách nhân” , mày thích đi khua khoắng các blog khác để mà “thọc mạch” rồi lên mặt chê bai , chửi người ta .

Đọc văn của mày ở blog mày viết đấy , cao siêu quá , nên tao ngứa ran cả L , mạo muội viết blog này “ Lói” chuyện với mày tí . Cũng mong mày đừng ngứa tay , phang cả tên tục lẫn “nick name” của tao lên “nhật báo” đâm ra họ tò mò dzô xem . Bà đây dân nhà quêm ăn lói ló không được hoa mĩ cho lắm , lẽ ra Bà không được dùng cái từ ngữ mà “ông bà” để lại , cứ nhồn mà nói chuyện với mày . Đúng ra phải dùng từ cho đẹp để bà nói chuyện với dân “có học” chứ . Thôi thì , bà đây chữ nghĩa không có , học mót bàn dân thiên hạ nhưng lại ra chiều “cao siêu” . đọc văn bà đừng chửi “vô học” nhá , vì bà vốn “vô học” mà .

Mày chửi bà văng “đéo” từ miệng một cô gái Hà Thành , từ đó ngọt ngào quá . Món này bà xin giả “nại” đem về cúng lò “rau má” nhà mày đấy . Bà chưa hề động đến “cọng lông” nhà mày , mà mày đưa cả blog của bà ra làm ví dụ cho những lời chửi của mày . Mày nói laoquangthau thích đi dạy người khác , ra vẻ đạo đức , mày nhìn lại con người mày xem . Khi mày nhận ra được chân tướng con người mày thì mày mới hiểu được giá trị những lời nói của bà đây . À , mày là người có học mà , bà chả dám dậy mày đâu , vì bà hiểu 1 , còn mày hiểu 10 cơ mà . Thường thường “ếch ngồi đáy giếng “ lại cứ coi trời bằng vung , mày hãy vươn vai ra ngoài xã hội xem , con người mày chỉ là “hạt cát nhỏ” trên một sa mạc . Mày thích ra chiều “cao siêu” , bác học thì mày cứ tinh vi đi nhá , mày đừng động chạm đến chân lông mà trên làng blog nhá . Bà cảnh cáo mày đấy .

Mày có giỏi thì ra mặt gặp bà tại đất Sài Gòn hay Thanh Hóa quê mày cũng được . Lúc đó bà với mày đối mặt xem , mày là thằng mặt L nào mà hỗn láo thế ? Mày chát chít trên mạng thì mày “thóa mạ” người ta , bà văng “đéo” với mày còn nhẹ đấy con ạ . Thế hỏi khí không phải , mày là thằng “đéo” nào mà ẩn danh , dùng một cái blog để đi nhà này , nhà nọ “dạy đời” người ta thế ? Mày ẩn danh không thật , nên con người mày luôn muốn người ta phải “ói” khi tiếp xúc với mày . “Ôí , chiềng làng , chiềng chạ , thượng hạ tây đông , làng trên xóm dưới ra đây mà xem , bộ mặt thằng Mithuatviet nó hiện ra này” . Này nhá , túm vào , vỗ “đoạch , đoạch …” Chiềng làng , chiềng chạ , mẹ đốp tôi đây “cho không “ lời vàng , ý ngọc của thằng Mithuatviet đây , có ai lấy không , tôi vỗ xuống , kêu cái “đoạch” giờ , cho nhẹ váy . Hahaa…

Các cụ nhà mình từ xưa đến giờ vẫn thích Mẹ Đốp đấy . Tuy mẹ ít học , nói năng bỗ bã nhưng được cái tiếng của mẹ ai ai cũng biết . Các cụ nhà mình ngồi mâm trên lại thích “dạy đời” , mẹ đốp tuy không thuộc đẳng cấp , nhưng vẫn “túm lại” được đấy . Váy mẹ rộng mà . Haha … Mẹ đốp đây chả có gì , chỉ có những lời chửi “bình dân học vụ”làm đầu . Xin kính gửi Bác Mithuatviet ạ !

http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200607/original/images1048399_14.jpg

Bà lại “chửi mất gà”


http://d.violet.vn/uploads/resources/blog/895/ga_trong_500.jpg

Cho nên mới có bà chửi rằng:

Cao tằng tổ đĩ, cao tằng tổ khảo, cố tổ gia tông cả ông, cả bà, cả cha, cả mẹ, chú bác, anh em, họ nội họ ngoại, xa gần ân ái, họ gái họ trai, dưới âm phủ đội mũ mà đi lên, trên thiên đàng xếp hàng đi xuống, bay hãy vén mái tai, gài mái tóc, đặng chống tai lên cho rõ, chống cửa ngõ cho cao, chặt hàng rào cho thấp để mà nghe tao chửi đây này... Hừm...

Tam canh mụ đội, xóm hội xóm phường, xóm trước xóm sau, xóm trên xóm dưới, lư hương, bát nước, chiếu trải giường thờ, tau bới mả cha bay rung rinh như thuyền mành gặp sóng. Tau chửi cho tan nát tông môn họ hàng cái quân khốn khiếp, cái quân vô hậu kế đợi đã ăn của tau bảy con gà xám, tám con gà vàng. Bay ăn chi mà ác nhơn ác nghiệp. Bay ăn bằng nồi đồng, bay ăn bằng nồi đất, bay ăn khần khật, bay ăn ban đêm, bữa tối. Bay ăn cho chồng bay sợ, cho con bay kinh, bay ăn cho ngả miếu sập đình, cho mồ cha bay chết hết để một mình bay ngồi đó bay ăn. Đồ quân ăn chó cả lông, ăn hồng cả hột. Cái quân không sợ trời đánh thánh đâm, trời đánh thánh vật. Bay ăn mần răng mà hết một chục rưỡi con gà?”

“Cha cố tổ mười đời cha bay. Bay ăn chi mà ăn ác rứa? Bay tham chi mà tham vô hậu rứa? Cứ sáng sáng mất cái thúng, đứng bóng mất cái niêu, chiều chiều mất lẻ củi, tối tối mất con gà. Một bầy ba con gà xám, tám con gà vàng, rứa mà hắn ăn mất một con, chừ đếm đi đến lại, còn mười một con. Bay ăn chi mà ăn vô hậu rứa? ... ”

Nghe tau chửi khuyến mại nè:

“Hôm qua tau mất con gà mái dầu khoang cổ. Hôm ni tau mất con gà mái nổ khoang bông. Con mô bắt là gái trốn chúa lộn chồng. Thằng mô bắt là đàn ông ba đời đi ở đợ... Tụi bay hãy vén mái tai, gài mái tóc, chống cửa ngõ cho cao, chặt hàng rào cho thấp mà nghe tao chửi... Bay ăn cho chồng bay sợ, cho vợ bay kinh, bay ăn cho ngã miếu sập đình, cho mồ cha bay chết hết, để một mình bay ăn...



1. Chửi Mất Gà

Một buổi sáng ở làng Bùi Trên, hiu hắt cùng mây trắng trời xanh, vắng hẳn tiếng gà quang quác, tiếng lợn eng éc. Buồn nẫu ruột hơn nữa là đầu thôn cuối xóm chỉ tòan nhà tranh vách đất, im ắng đến u tịch. Giữa hàng xóm láng giềng cũng có hàng giậu thưa, vẩn vơ dăm con bươm bướm trắng, vài ba chú chuồn chuồn vật vờ. Vào buổi sáng hôm ấy, sau cây chanh thấp tè, rõ mồn một là chị phó rèn, áo sồi váy đũng, đang nhởn nha ngồi chồm hổm sàng gạo với cái nia bé con con. Thỉnh thỏang chị nhón một hạt thóc như bắt chấy, bắt rận, bỏ vào miệng nhậm gấm, cắn cái đốp rồi nhổ bẹt xuống đất. Lâu lâu ngẩng đầu lên nhìn ra góc vườn, như ngóng đợi tìm kiếm, thỉnh thỏang lại bâng quơ chép miệng một cái như gọi gà, ới vịt. Lạc lõng bên thửa cà là lứa gà con, con trắng con nâu, kêu chiêm chiếp, mặt mày ngơ ngác…như gà con mất mẹ.


Cái sân gạch thẻ nhà bên này cũng thiếu vắng hẳn anh vện, gác đầu lên hai cái chân bắt chéo, mắt lim dim hay chị mướp lười biếng nằm dài phơi mình dưới nắng hanh vàng, chốc chốc lại thè lưỡi liếm lông, liếm cẳng. Ấy là cơ ngơi của nhà ông bà Cửu, khác chòm xóm chung quanh với ba gian hai chái, trăm sự cũng qua một tay bà Cửu thu vén cơ ngơi nhà chồng, có một dạo nhà cửa ruộng vườn bề thế nhất làng, nhất xứ. Vào cổng là vườn, phải qua cái ao đầy cá trắm, con nào con nấy béo nần như đang có chửa, lại có cả cây cầu gỗ lùn tịt để rửa rau, vo gạo, vỗ váy, giặt yếm, đập chiếu…Còn ông Cửu, nghe nói xưa kia làm thông ngôn cho lính thợ với Tây, áo gấm về làng, áo dạ khuy đồng, mũ “chào mào”, giầy “săng-đá”. Chó cắn mèo cào, mua không được chân lý trưởng, ông quơ được cái…cửu phẩm. Nói cho ngay, từ hàng nhất phẩm đến thất phẩm là cho các quan thông kinh sử như quan sán sát, quan đốc học, còn bát phẩm và cửu phấm cho hàng thứ dân. Chả phải nói mẽ, nghe các cụ kể lại, chạy được hai cái…danh ôn này cũng hốc người ra chứ chẳng ngon sơi gì, mã phu mang thông tri của quan huyện trình tấu chạy vào tới kinh đô Huế. Quan bộ lễ săm soi cả năm trời, xin sắc chỉ, sắc phong, nói dối phải tội, mang về đến làng cũng cả hai, ba năm…


Vừa lúc bà Cửu vén cái mành cửa bước ra, tay che mắt vì cái nắng hướng đông, đóan chừng là giờ mẹo. Không một ngọn gió, cây như đứng im, lá không lay động. Trời như khô, lại hâm hâm, chắc có cơn giông, cơn bão âm ỉ đâu đây. Vừa định quay vào thì cũng vừa lúc chị láng giềng nhìn qua bắt gặp. Mà sắp có giông tố thật, từ nẫy đến giờ chị chỉ đợi có bấy nhiêu, trong cái vắng lặng của trời cao đất rộng, chỉ thiếu tiếng sáo diều vi vu. Chị phó rèn, cái yếm đã sẫm màu cháo lòng phơi ra nhờ cái áo nhuộm củ nâu cũ kỹ, cái váy bằng vải đen mộc thả lửng lơ dưới gót chân. Chị nức tiếng chanh chua ở cái thôn này, chị đang như con diều hâu từ trên cao lặng lờ sà xuống hớt con gà con, nhưng cũng không quên dang cánh đảo một vòng thăm chừng. Chị đỏng đảnh mào đầu bâng quơ bằng câu chửi tự biên tự diễn : Mả bố đứa nào bắt gà của bà! Mày bắt gà bà, mày băm, mày bổ, mày rỉa, mày rói, mày gói, mày dâng cho thằng trắng râu đầu bạc, nó sắp sửa ngồi bát bình hương nhà mày nó xơi nhá ” .


Còn ai trồng khoai đất này, thằng trắng râu đầu bạc lại sắp sửa ngồi bát bình hương là chính ông Cửu đây chứ ai. Đang nằm bẹp dí bên khay bàn đèn thuốc phiện trên căn nhà ngang, ông nghe vanh vách, không sót một tiếng…Dưới gầm phản, con vện cũng hãi quá thể, cụp đuôi nằm co rúm. Thế nhưng lúc này, ông đang lơ mơ về một thời vang bóng cùng ngẫm chuyện nhân sinh, nào là sống ở trên đời chả được mấy, như cánh hoa sớm nở tối tàn. Không ăn chơi cũng thiệt, chẳng ăn cũng thiệt vào thân, chẳng chơi cũng già, mà đã ngập vào chốn ăn chơi, tâm giao tri kỷ cũng chẳng ngòai khi buồn thuốc phiện, lúc chơi cô đầu này kia…


Ông Cửu năm nay mới ngòai bốn mươi, vậy mà con cháu trong nhà vô phép vô tắc gọi là…“cụ”. Một phần vì cụ khó tính khó chiều, dở người lại hay gắt như mắm tôm. Một phần khác, thọat đầu cụ bỏ ra vài hào, làm vài khói bên cái bàn đèn gạo ngòai phố huyện, rồi cụ bị ả tiên nâu nó hành lúc nào không hay nên hom hem, lụ khụ và khọm trông thấy. Hôm nay cụ dậy muộn, nằm khểnh trên cái phản mộc nghe chị hàng xóm mắng chó chửi mèo, quên tiệt đi mất là từ sáng đên giờ chưa làm ngao nào. Tiện tay quơ cái dọc tẩu, cụ phồng má lấy hơi thổi phù phù vào cái đít dọc tẩu cho thông hơi thông điếu, chậm rãi hơ cái nõ qua ngọn đèn dầu lạc cho vừa đủ nóng, tiêm một viên bi thuốc phiện lấy ra từ cái hộp dẹt tròn, dấu in hình nổi “Bà Đầm Xòe” với cái tít: “Công Quản Nha Phiến Đông Dương“ mà cụ đã cậy cục mua ở phố Khâm Thiên, tận Hà Nội. Cụ lào thào: “Rõ đáng đới”. Ấy là cụ trộm vía rủa thầm tiện nội cụ đấy thôi.


Từ nãy đến giờ bà Cửu, mới bảnh mắt ra chả biết nếp tẻ gì, mà chuyện đá thúng búng nia gì đây, đồ cái thứ gái góa ăn không ngồi rồi, ngứa chôn ngứa mồm mang ông chồng già bà ra mà réo. Trong đầu bà lầng quầng: “Giời ơi là giời, bỏ mẹ nó rồi, gặp bà thì cứ bỏ xác. Bà báo đời cho mày biết…”. Lạt mềm buộc chặt, để đấy rồi bà sẽ văm như văm cám, bà sẽ bằm nó ra như bằm chuối cho lợn ăn. Nhưng bà im thin thít như thịt nấu đông, bà đang ú ớ, chưa biết tung hê lời ăn tiếng nói sao cho mát mẻ, cho gọn gàng nề nếp. Thì cũng vừa lúc chị phó rèn đứng lên vén váy, gấu áo giắt dưới cái dải rút, hai tay vỗ đen đét vào nhau, chân nhún nhẩy, ngóac mồm gào tóang lên, âm thanh lỏang xỏang, chan chát như búa tạ đập xuống đe:


- Làng trên xóm dưới, bên ngược bên xuôi, tôi có con gà mái xám. Hôm qua tôi còn cho nó ăn, thế mà bây giờ nó bị mất. Ai bắt được thì cho tôi xin, nếu không trả thì tôi chửi cho mà nghe. Ấy…ấy…


Cụ Cửu hóng mắt qua phên tre nhìn sang bên kia, vừa lúc chị phó rèn ngúng nguẩy quẹt miệng và co cái đầu gối lên. Giời ạ, người ngợm gầy như que tăm…Cụ lại lẩn mẩn về những ngày tháng thoi đưa, ngày ấy cô nàng có da có thịt, đang lom khom múc nước nhờ ao nhà cụ, áo cánh phin nõn cổ tròn, lồ lộ cái gáy trắng như cùi bưởi. Quần lĩnh đen, gấu vén lên tận bắp đùi, cổ chân tròn chịa như bắp chuối non. Nghe tiếng chân cụ lao xao đi đến, ngày ấy cụ mới ở bên Tây hồi cố quốc, cô nàng lờ đờ như chị vịt chống gậy, vậy mà ngoắt một cái cắm đầu le te chạy vù vào nhà và cụ chỉ biết cười tủm với những đong đưa cùng gió thỏang mây trôi…


Ấy là chị đang nhỏ nhẹ xưng…”tôi” và sắp kiếm chuyện chan tương đổ mẻ gì đây. Mà chuyện gì mới được chứ, bà Cửu đang phân vân thì chị hàng xóm như chờ đợi cái thời cơ này từ lâu lắm. Bây giờ ấm ức giận hờn này mới được bung ra như ngô rang, lên bổng xuống trầm với giọng ngọt như mía lùi, mát hơn đường phèn. Chị tung tẩy:


- Bố cái thằng chết đâm, cha cái thằng chết xỉa. Mày day tay mặt, mày đặt tay trái, nỡ ăn cắp của bà đây con gà, này bà bảo cho chúng mày biết: Con gà nó ở nhà bà, nó bị bắt trộm về nhà mày thì nó thành con cú, con cáo, con “thành đanh mỏ đỏ”, nó mổ mắt xé xác ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con cái nhà mày đấy. Ấy…ấy….


Mày ăn thịt con gà nhà bà thì mày ăn một miếng, chết một đứa, ăn hai miếng chết hai đứa, ăn ba miếng chết ba đứa và ăn cả con gà đó sẽ chết cả ổ nhà mày…


“Cái thằng chết đâm, cha cái thằng chết xỉa” đang thong thả “day tay mặt, đặt tay trái” khẽ nhấn nhấn chất dẻo vừa đủ chặt sau đó nhẹ nhàng châm lửa. Trong cái vắng tanh vắng ngắt của gian phòng ẩm thấp, gần như cụ nghe tiếng chửi xéo, nghe sèo sèo như của chất nhựa quánh gặp nóng kêu riu riu. Trong cái giây lát yên ắng chờ đợi sắp gặp gỡ ả phù dung, cụ thót bụng lấy hơi từ lục phủ ngũ tạng. Đưa cái đít dọc tẩu ngang cửa miệng, thông qua cái yết hầu nhấp nhô lồi lõm, cụ hít vào một chập thật lâm ly quy phượng như lõ cả bộ điếu ra. Tiếng ống điếu kêu ro ro ròn tan, mùi thơm ngào ngạt tỏa khắp nhà. Cụ lờ đờ nhả ra từng cụm phùn phụt như khói tầu hỏa giữa gian phòng thênh thang, không một bóng người. Trừ con thạch thùng đang đờ đẫn trên vách tường, bỗng nó buồn tình tặc lưỡi một tiếng “tắc” vô nghĩa. Nhưng nếu nhìn kỹ, cái màng cổ họng trăng trắng của nó đang phập phồng, kéo lên kéo xuống, thì ra nó cũng đang hít hít chút hơi hám cơm thừa canh cặn của cụ.


Bên kia hàng rào, tiếng chửi chí chát của chị phó nề lại vang vọng như gọi hồn:


- Bốn thằng cầm cờ xanh đứng đầu ngõ, ba thằng cờ đỏ đứng đầu làng, đưa đám tang cả nhà mày ra đồng làng chôn đấy. Mày có khôn hồn mang trả ngay con gà đó cho tao, kẻo không tao đào mồ, quật mả cao tầng tổ khảo, cao tằng tố tỉ, thúc, bá, huynh, đệ, cô, dì, tỉ muội nhà mày đấy.


Bất giác cụ nhăn mặt vì chả hiểu chị này hát hỏng như kéo đàn nhị, đàn gáo với: “cờ xanh đứng đầu ngõ, cờ đỏ đứng sau nhà, cờ vàng dựa bên hữu, cờ trắng nghiêng bên tả”. Bố khỉ, cứ như hát cô đầu không bằng, cụ lại dây dưa đến chuyện cũ, dạo ấy chị đây cũng đẹp gái, đẹp nết ra phết chứ đâu có đùa, lâu lâu dòm cũng hay gớm, cái yếm sồi rộng toang tóac đựng hai quả bưởi to đùng, bắp đùi to bằng con cá trắm, đít chành bành như cái lồng bàn…Trong khi tiện nội cụ, gầy thầy cơm, ăn thủng nồi trôi dế, người vẫn đuỗn ra như con lươn, con trạch, cụ lại nghĩ đến câu nói của ông chánh tổng Đòan: “Các mụ nhà ta đều giống miếng thịt ngan già luộc dối, đã hoi lại dai như chão”. Đầu óc mông lung như sương khói, như ếch vồ hoa mướp, cụ vẩn vơ mơ tưởng đến…Và cụ dặn mãi mới ra câu thâm nho của các cụ đồ xưa là thê …thê gì…như thê bất như thiếp, thiếp bất như tì, tì bất như đạo, đạo như đạo bất đạo. Bỗng cụ khóai chí tử cười khan, vỗ đùi đét một cái, như bị muỗi đốt…


Vườn rộng ao sâu, cụ vẫn lắng nhe chị phó réo rắt chửi, chị có thể chửi cả buổi, cứ như với cái điệu văn vẻ có tông, có tích, cứ thượng tổ, hạ tổ nhà hàng xóm đến tàn cây héo lá, mồ mả tổ tiên nhà cụ cũng phải nhẩy dựng đứng lên. Buồn buồn gãi khô búng ghét, chả biết làm gì, cụ lại vểnh tai nghe chị phó nề chửi tiếp:


- Cha tiên nhân ông nội, ông ngọai, ông dại, ông khôn, đồng môn chi rễ nhà mày nhé. Mày gian tham đã ăn trộm, ăn cắp con gà nhà tao. Rồi ra, nhà chúng mày chết một đời cha, chết ba đời con, đẻ non, đẻ ngược, chân ra trước, đầu ra sau, đẻ sót nhau. Chết mau chết sớm, chết trẻ đẻ ngang nhé…


Đẻ với đái, đến đây thì giời chẳng chịu đất, đất phải chịu giời, bên này bà Cửu than thầm: “Ối giời cao đất dầy ơi, đúng là giống mồm chó vó ngựa, đúng là cái con mụ nạ dòng chết bầm chết tiệt này nó chửi gà, chửi qué đến …thằng cả nhà bà thì phải”. Giận bầm gan tím ruột, như muốn đào mồ đào mả ông cố nội nhà nó lên, nhưng bà phải vào nhà xách cơi trầu ra làm một miếng cho thấm giọng cái đã. Rồi bà ngồi bệt xuống bên hè, vừa têm trầu vừa chửi vọng qua bên kia: Cha tiên nhân tam tứ đại đồng đường nhà mày, đồ quạ tha ma bắt, đồ ăn gian nói dối, dám đổi trắng thay đen, dám vu oan giá họa cho nhà bà. Bà truyền bảo ba hồn chí vía cho nhà mày biết: Quân điêu ngoa đi ngang về tắt, quen thói giăng hoa chim chuột, không chết treo chết chém thì cũng chết sông chết ngòi, chết đường chết xá, mưa sa gió dập đời mày. Ba vạn chín nghìn âm binh quen đựng điều đặt chuyện, cũng không cứu nổi cái tội mỏng môi hay hớt của m..à..y…m…à..y..đấy nhá !”


Chị phó rèn mặt đỏ lên phừng phừng, rừng rực như cái lò nung bốc khói. Chị cũng bốc, tay vung miệng chửi, chửi đơn, chửi kép, chửi chùm, chửi lợp. Chị chửi có gai, có ngạnh, cho thỏa chí bình sinh là dân đồng chua nước mặn nhưng cũng văn tế, văn vẻ như ai, mồm miệng nước bọt, nước rãi dẻo quánh như nhựa sung, nhựa mít :


- Con gà của tao nuôi bằng gạo, bằng thóc, vậy thằng cha nhà mày đã bắt con gà của tao. Nó là con gà, con qué, nó về nhà mày là con cú, con cáo, nó mổ gan lòi ruột đứa nào ăn miếng thịt gà nhà tao. Nó là thành đanh đỏ mỏ rút ruột rút gan nhà mày ra. Mày không thả gà nhà tao ra, tao đóng ghế 9 tháng 10 ngày, buổi sáng tao chửi, buổi chiều tao tế, buổi trưa tao hú, buổi tối tao nguyền. Tao rủa cho cây vàng lá, cho quả chột thui, cho thần trùng đến rút từng khúc ruột cha, ông, vợ, con nhà mày ra.


…”…vợ con nhà mày…”, đúng là vợ dại cái mang, số là cụ chưa đến cái tuổi…ngũ…ngũ thập tri thiên mệnh thì phải, chưa chi tiện nội cụ đã nhanh nhẩu đỏang khuân cái kim tĩnh bằng gỗ vàng tâm đặt lù lù ở giữa nhà. Riêng cụ chả dại về chầu ông bà ông vải vội, vậy mà tiện nội cụ đã nghe thằng cả súi bẩy, mang cái quan tài vàng khè về đặt chềnh ềnh ở giữa nhà để báo cô, báo hiếu. Cụ thấy cụ còn khỏe như vâm, còn tiện nội cụ thì ôi thôi, tối tối cứ ho khan, ho đặc, nửa đêm nửa khuya cứ lục đục đi giải xòanh xọach, tim gan phồi phẻo ắt hẳn muốn ấm ớ gì đây. Nói dại chứ tiện nội có…mắt trắng dã, tay bắt chuồn chuồn thì hai bố con cụ cứ chơ mắt trẫu nhìn nhau, của khôn người khó, nhà lại neo người. Cớ sự này thì cụ phải tính, không tính không xong, ấy là chuyện thằng cả…Cụ đang bí ngô, bí khoai với đường thê nhi của ông con thì cũng may. Gặp lúc mây chiều gió sớm, mới ra giêng đây, bà chánh tổng làng “Bùi Dưới” bắn tiếng với tiện nội cụ về cô gái rượu của họ.


Đất Nam Định cụ, cả hai làng này chỉ có một họ Bùi, làng Bùi Dưới lại…ngọng líu ngọng lo mới rõ khổ nên gái làng mới ế chỏng gọng, thế là trâu đi tìm cọc, gái Bùi Duới cứ nhè trai Bùi Trên mà gá nghĩa. Hương ước làng còn ghi lại rành rành như chuyện xưa tích cũ, nói chẳng ai tin mới rõ khỉ. Mà ả “Bùi Dưới” đây, cụ biết thừa bứa ra đấy, răng đen hạt na, tóc vấn trần nhưng chỉ cái tội lớn tuổi nhầng nhầng, người ngợm vừa gầy vừa khô. Ấy là khô chân gân mặt, các cụ ta xưa dậy đắt tiền mấy cũng mua, như mua trâu mua lợn vậy. Chuyến này cọc đi tìm trâu, cụ Cửu không…”đặt cọc” cũng không xong, cứ nhìn cái cơ ngơi nhà ấy thì rõ ngay tán tàn, nhà năm gian hai trái, ngói lợp tòan bằng ngói ta, đều tăm tắp như vẩy rồng, rêu phong cổ kính. Riêng cái sân gạch mầu gan gà cũng khỏi chỗ chê, lát gạch vồ chắc khừ, viên nào viên nấy cứ vuông bằn bặt gối đầu lên nhau, nung chín đỏ tím lịm, trông thấy mà mát cả mắt.


Đến nước này thì ông con cụ như chuột sa chĩnh gạo chứ còn gì nữa, ruộng thượng đẳng điền, chuồng rậm rịch lợn đàn, trâu nghé. Riêng cụ thì lọt sàng xuống nia, đánh đổ đánh tháo ngày cũng được mươi ngao. Mà cũng chẳng biết cái thằng mít đặc con cụ có ưng không mới rõ khỉ, chẳng cần làm vài bi đi mây về khói, nói phải củ cải cũng phải nghe, vì cụ biết thằng con cụ sợ bố một phép. Trò đời cái giống đàn ông, con trai như cái nơm chòm chọp, úp xuống là cũng đâu vào đấy cả. Nếu như tiện nội cụ rằm cũng ừ, mười tư cũng gật thì cụ sẽ bảo ra chợ huyện sắm cơi trầu, ít bánh cốm, đôi gà trống thiến để xin cái lễ xem mắt. Sau đám cưới, làng nước trông ra, quan viên trông vào, chắc phải nhúng con vện vào nồi nước sôi quá, kèm dăm chai rượu Ty của nhà nước Bảo Hộ thì nhà cụ mới thông thóang ra được.


Tiện nội cụ bắt qua chuyện về cô con dâu tương lai, mặt mày thô vụng, người dài như con sếu, chẳng biết vác về có được tích sự gì không, hay lại nằm ườn chẩy thây, chẩy nước ra đấy. Khi này cụ mới xuống giọng, bà đừng có vẽ chuyện với trông mặt bà bắt hình dong, bà chống mắt lên mà xem, chim khôn thì khôn cả lông, khôn cả cái lồng người sách cũng khôn. Hai vợ chồng nhà cụ nói chuyện như bánh đa bánh đúc, bà lại lải nhải với cụ ai lại đi xem mắt vợ mang con gà trống… thiến, hai đứa làm sao mà đẻ đái được nữa đây…Rồi thì cái hôm xem mắt vợ cho thằng cả cũng xong tất.


Xong thế nào được, bên kia chị phó rèn đang điên tiết, hai chân dẫm thình thịch xuống đất và dẫy đành đạch như đỉa phải vôi. Giận mất khôn, chị chả hiểu nghĩ sao, hai tay nắm gấu váy chị vén phứa lên như khoe của và há họng chửi tung hê


- Tao hú ba hồn bẩy vía thằng đàn ông, ba hồn chín vía con đàn bà đã bắt con gà nhà tao. Thằng đứng chiếu ngang, thằng sang chiếu dọc, thằng đọc văn tế, thằng bế cái hài, thằng nhai thủ lợn. Tao gọi ông cầm cờ xanh đứng đầu ngõ, ông cờ đỏ đứng sau nhà, ông cờ vàng dựa bên hữu, ông cờ trắng nghiêng bên tả, yểm cho nhà mày đẻ con ra thì ngược, sinh cháu ra thì ngang vì dám cả gan ăn con gà mái nhà tao.


Bà Cửu không thể để con mụ tai ngược mồm loa mép giải này lên chân được nữa, trên rừng có sơn lâm, dưới sông có hà bá, phải dần mụ này một mẻ, phải trị nó thẳng tay. Đúng là cái thứ xanh vỏ đỏ lòng, mới hôm nào đây lẻo mép nhà bác với nhà em, nào là dạo này nhà em túng bấn quá, đám Bùi Dưới ấy em chả dám dây vào, trăm sự nhờ bác cả, nay vay rá gạo, mai mượn rổ khoai. Mà con này nói ngọng nữa mới bỏ bố, nghe đến…bùi dưới, bà muốn tóet miệng…phì cười. Ấy vậy mà bây giờ giở mặt thớ lợ, nỏ mồm chua ngoa, nó muốn trêu ngươi ai đây mà độc mồm thế không biết. Thế là ba máu sáu cơn bà nổi lên, bà bỏ cơi trầu xuống, khăn vuông vắt vai, một tay chống sườn, một tay lồng lộn vung vẩy. Bà bước tới bước lui trên mặt đất thô, cứ mỗi bước đi, ngón tay trỏ cong khoằm như mỏ vẹt, lại mổ đôm đốp sang bên kia xỉa xói, như được thuê đòi nợ chiều ba mươi tết với năm cùng tháng tận. Bà chửi toang hóac: “Tổ cha chúng mày…”. Bà cũng bắt chước con nặc nô, ngừng một chút nghe động tĩnh, rồi bà lồng lộn, gân cổ như con gà chọi, bà chửi te tái:: Cha đẻ mẹ thằng đàn ông, con đàn bà nào quen thói bán không mua chịu, quên vay đầy giả vơi, đẻ con có mồm mà nói điêu, có mắt mà nói mò như mày…Cha đẻ nhà chúng mày nhá… ”.


Cạnh cái bàn đèn là ông đầu rau nhỏ bằng quả bưởi, cụ thong thả nhấc cái siêu nước trà đang được hâm nóng từ cái lò than, những bông hoa lửa bắn ra như pháo hoa cà, hoa cải. Chiêu trà vào cái chén tống to bằng quả bứa, cụ khẽ cất đầu khỏi cái gối mây, nghiêng mình hớp một ngụm. Cụ hãm khói thuốc, rồi từ từ nhả ra những mảng khói xanh nhạt nhỏ, từng đợt từng sợi mỏng tanh như mây chiều giăng giăng đầu núi. Xong từng ấy lễ bộ, cụ khẽ trở mình nằm vật ra lơ tơ mơ như cóc ngậm thuốc lào, nhón tay bốc cái kẹo lạc, cụ bỏ tót vào mồm nhai rau ráu, ngày rộng tháng dài, cụ không có việc gì mó tay mó chân vào hơn là nghĩ vẩn vơ, vơ vẩn…Cụ tự hào hãm khói thuốc được như cụ, từ huyện lên phủ không dễ có mấy tay. Cụ cũng tốn gần nửa đời người, mất quá nửa tư gia điền sản nhà cụ chứ đâu có bỡn. Hao tài tốn của đến như lúc này đây, thuốc sái nhì, sái ba, cụ phải trộn với thuốc tễ và cam thảo. Chứ đâu ai lại như ông nhà văn, nhà báo nào đó viết dấm dớ trong “Vang bóng…” một đời hay một thời gì ấy, là có một ông, vì nghiện trà tầu mà tiêu ma sự nghiệp, phải bán nhà bán ruộng. Và cụ chợt thở ra vì cụ cũng vừa nghĩ đến gia cang nhà cụ gần đây…


Số là nhà cụ chẳng có đất ăn học, mả ông tằng bà cố cụ có táng hai con ngao bằng vôi vữa, nên dốt đặc cán thuổng như cụ chỉ ngoi đến lớp ba là hết đất, nhân đó mua được cái hàm “Cửu phẩm văn giai” của nhà nước Bảo Hộ. Cụ được sếp chiếu trên chiếu dước với các quan viên ngòai đình, ngòai làng, năm này qua tháng nọ, hát xướng cô đầu, tổ tôm sóc đĩa với cụ tiên chỉ, cụ hàn. Thế nên ruộng cò bay thẳng cánh ở làng Bùi Trên của nhà cụ cứ rủ nhau đội nón mà đi, bề ngòai lúc này trông thì bảnh thật đấy nhưng chông chênh lắm vì nợ nần như chúa chổm. Thế nên sáng sớm chiều hôm, cụ cứ âu sầu nhân thế cùng cõi đời bèo nhèo như thịt trâu về chiều.


Giỏ nào quai nấy, cụ cũng như bà, cụ đang âu sầu nhân thế đến ông con, cơ ngơi nhà cụ được coi gần như nước lã ra sông, tất cả nhờ vả vào thằng cả nhà cụ đang học ở trên huyện, sang năm mà ngáp ngáp được cái bằng tiểu học thì nhà cụ mới có cơ ngóc đầu lên nổi. Tiếp nữa, cụ sẽ gửi qua Nam Định học tú tài để bắt cái chân lý trưởng, bổng lộc với thuế điền, thuế trạch, đầu gà má lợn thì cứ ối ra đấy. Ấy lại quên, còn cái thuế thân nữa, nhà nước Bảo hộ đang tuyển dân đinh đi cạo mủ cao su ở bên Tân Thế Giới. Thế nào họ chẳng thậm thụt cổng trước cửa sau với ông lý, con cụ. Ối dào, được thời cụ lại vểnh râu tôm lên mấy hồi.


Còn bà đang sôi tiết nhưng mặt tái dại như dây khoai kiệt nước thì chị phó nề, cái yếm khi không cũng lỏng…dây, tuột xuống cái rốn lồi bằng quả sung, cờm rớm để lộ cặp vú như hai quả mướp già, hai bầu vú xẹp lép, nổi gân xanh chằng chịt. Chị phó rèn xăn váy lên tận bẹn, cũng đầy gân xanh, gân nâu, chị cắt ngang sẻ dọc:


- Hôm nay tao chửi một, ngày mai tao chửi hai, tao chửi cho chúng mày hóa điên hóa cuồng, tao rủa suốt tháng liên miên không ngừng, năm này qua năm nọ. Bây giờ tao mệt quá rồi, tao vào lo cơm nước cho con tao, muốn sống thì phải thả gà tao ra, lạy tao hai lạy, tao tha cho mày. Nếu không, ngày mai tao tế sống chúng mày cho mà biết, chúng mày hãy vén màng tai, gài mái tóc, chặt hàng rào cho thấp mà nghe tao chửi: Bớ con nào bắt gà nhà tao là chúa lộn chồng, thằng nào ăn gà nhà tao là đàn ông ba đời đi ở đợ, đẻ con không có lỗ đít. Bớ…


Mặt trời đã ngả gần con sào, cuộc đối đáp đến hồi như phường chèo, khi chậm, khi nhanh, lúc ngừng, lúc nghỉ, lên cao, xuống thấp, lấy hơi kéo dài, thở ra ngắt quãng, vung tay đá chân đến gần giờ ngọ lúc nào chị phó rèn không hay. Chị cũng đã khản cổ, giọng rè đặc, tóc xổ ra, áo xống xộc xà xộc xệch, mồ hôi đầm đìa, mắt đỏ ngầu, sùi bọt mép thở hổn hển. Cũng ngay khi ấy, có tiếng gà gáy te te giữa trưa, bà Cửu nhớ lại các cụ dậy rằng, con gà biết những cái mà người không biết. Như gà biết gáy giờ tí, giờ dậu, gáy ròn rã là nắng, khào khào là mưa. Con người chỉ biết sau con gà là gáy giờ ngọ, thế nào trong làng cũng có đàn bà…chửa hoang và bà như vỡ nhẽ ra. Bà Cửu chợt nhớ ra chị hàng xóm đáo để tên Dần, thế là bà gân cổ lên báo đời cha con đĩ này biết tay bà. Bà lộn mề ứa gan, giật phắt cái khăn vuông vứt tọet xuống đất, bà muốn chửi vỡ làng vỡ nước, bà tế sống nhà chúng nó: Có là…là… hùm, là hổ thì cũng chui từ cái lỗ kín của đàn bà mà ra. Từ ông ba mươi đến con thối thây, thối xác cũng chẳng thóat được cái lỗ rò ấy. Đời con đời cháu nhà mày cũng ở cái giống ấy mà chui ra. Này, bà báo đời cho mày biết nhá, con đĩ gầy, đĩ rạc, con đĩ chửa hoang…”


Nghe tiện nội cụ tế sống với lỗ này lỗ kia, cụ ngao ngán lắc đầu…Cụ lại ghĩ đến sính lễ với đôi gà trống thiến dạo đầu năm, cụ Cửu chợt nhíu mày như suy nghĩ gì nung lắm. Cụ đẩy đưa mênh mang, tháng mười chửa cười đã tối, hôm qua thằng cả khăn gói lên huyện trọ học, cái thằng ngỗng đực dở tây dở ta, nhếch nhác với áo dài “ba ga” cụt lủn ngang đầu gối, quần trúc bâu, đầu đội mũ “cô lô nhần” và nách kẹp kè kè đôi giầy “ca na” cũ rích của cụ đã vất xó từ lâu. Cái thằng con mà cụ vẫn bấm bụng thở dài sườn sượt rằng mai kia chả làm nên tam trạng gì sất, sau khi dòm thấy mắt vợ lại diện óach như cụ năm xưa, lâu lâu lại thậm thụt xuống làng Bùi Dưới điếu đóm, lúc rổ na, khi quả mít. Chả là như hồi hôm đây, nháo nhác một cái là nó cung cúc lỉnh ra đầu ngõ lúc nào không ai hay, trong cái nhá nhem của trời về chiều, cụ kèm nhèm thấy hình như trên vai đeo cái quai bị cói, người lom khom cong xuống phía đằng trước như dấu cái gì ấy, thóang như hai tay lum khum bê…cái bu gà thì phải. Mà khỉ thật, chẻ tre không bằng ve gái, ai lại thằng nỡm đi mò gái với con gà mái đẻ cơ chứ.


x x x


Của đau con xót, chị phó nề quay phắt ngược trở ra, ắt hẳn là bổ nháo bổ nhào ở đâu ra được câu chửi độc địa mới. Chẳng uốn éo vặn vẹo gì sất, chị bèn hóng mỏ qua giậu tre thưa, vớt vát câu chửi…tân thời: “ Cha năm đời mười đứa nào bắt gà của bà thì thò mặt ra nghe bà chửi thêm nhé! Mày bắt gà, mày vặt lông, mày luộc, mày nấu, mày nướng. Cho vợ, cho chồng, cho con, cho cái, khi khi khú khí với nhau nhá! Mày có khôn hồn thì trả ngay cho bà, nếu không ngày rằm, ngày một bà trồng cây chuối ngược, bà gọi thần trùng đỏ mỏ, mặt xanh nanh trắng đến bắt cả nhà mày đi! “


Chị phó nề cắp cái nia lon ton đi vào, tiện nội cụ thóat nợ, rềnh ràng xuống bếp săm soi ba cái đầu rau với con dao, cái thớt. Cả không gian lặng ngắt như tờ, còn lại chỉ là tiếng rì rào của cỏ cây hoa lá. Bỗng con thạch thùng đi hoang tặc lưỡi một cái “tắc” như “sực tắc”… Chợt nhòm thấy mấy cái lá chanh đang ngả nghiêng trước gió, câu hò giọng hát “ Mày bắt gà, mày vặt lông, mày luộc…” thoang thỏang như tha thiết mời gọi đâu đây… Cụ như ngứa răng, cũng búng lưỡi chép miệng mội cái “tách”.


Cũng không dấu gì, chả là cụ lại muốn nghe chửi mất gà thêm nữa. Rõ chán thế đấy, hóa ra cụ nghiện nghe chửi như…nghiện thuốc phiện đấy thôi. Cụ chỉ sợ mai này chẳng được nghe chửi thì buồn…Giời ạ, buồn như trấu cắn.


Có lẽ, người Việt chửi giỏi nhất thế giới. Các bà các chị chửi lại càng giỏi. Đứng bên hàng rào, cạnh cổng hay quán nước đầu làng, không cần đạo cụ, chẳng cậy micro, chửi có bài có bản, có lớp có lang, có lên bổng xuống trầm kèm vũ đạo vung tay, chống nạnh, vỗ bẹn, tốc váy… Độc diễn nhiều giờ liền, chẳng kém opera, hơn xa kinh kịch. Một bài chửi kinh điểnChửi mất gà, chắc các bạn đều đã từng thưởng thức.

Ngày cuối tuần cùng xả xì trét, xin bắt đầu bằng bài chửi của người đàn bà mất gà, trong tiểu thuyết Bước đường cùng của nhà văn Nguyễn Công Hoan. Các bạn có phiên bản sưu tầm, ghi lại từ bà, mẹ, cô, dì, từ vợ quý bồ yêu, đóng góp nhé!



"Làng trên xóm dưới, bên sau bên trước, bên ngược bên xuôi! Tôi có con gà mái xám nó sắp ghẹ ổ, nó lạc ban sáng, mà thằng nào con nào, đứa ở gần mà qua, đứa ở xa mà lại, nó dang tay mặt, nó đặt tay trái, nó bắt mất của tôi, thì buông tha thả bỏ nó ra, không thì tôi chửi cho đơới!

Chém cha đứa nào bắt gà nhà bà! Chiều hôm qua, bà cho nó ăn nó hãy còn, sáng hôm nay con bà gọi nó nó hãy còn, mà bây giờ nó đã bị bắt mất. Mày muốn sống mà ở với chồng với con mày, thì buông tha thả bỏ nó ra, cho nó về nhà bà. Nhược bằng mày chấp chiếm, thì bà đào mả thằng tam tứ đại nhà mày ra, bà khai quật bật săng thằng ngũ đại, lục đại nhà mày lên. Nó ở nhà bà, nó là con gà, nó về nhà mày, nó biến thành cú thành cáo, thành thần nanh đỏ mỏ; nó mổ chồng mổ con, mổ cả nhà mày cho mà xem!
Ới cái thằng chết đâm, cái con chết xỉa kia! Mày mà giết gà nhà bà thì một người ăn chết một, hai người ăn chết hai, ba người ăn chết ba. Mày xuống âm phủ thì quỷ sứ thần linh nó rút ruột ra ...

Chửi mất gà


Chúng ta, không ít thì nhiều, đã nghe qua những giai thọai về “chửi mất gà.” mình vừa sưu tầm được một trong những bài chửi này . Chửi ra trò, chửi thành lớp lang, bài vở đàng hòang . Mời các Blog "thưởng thức" .


“Ới .....làng trên xóm dưới, bên ngược bên xuôi, tôi có con gà mái vàng. Sáng nay tôi còn cho nó ăn, thế mà bây giờ nó bị mất ! Ai bắt được thì cho tôi xin, nếu không trả thì tôi chửi cho mà nghe đấy… ấy… ấy !

Bố cái thằng chết đâm, cha cái con chết xỉa ! Mày day tay mặt, mày đặt tay trái, nỡ ăn cắp của bà đây con gà. Này bà bảo cho chúng mày biết: Thằng đứng chiếu ngang, thằng sang chiếu dọc, thằng đọc văn tế, thằng bế cái hài, thằng nhai thủ lợn… Con gà nó ở nhà bà là con gà. Nó bị bắt trộm về nhà mày thì thành con cú, con cáo, con thành đanh mỏ đỏ, nó sẽ mổ mắt, xé xác ông, bà, cha, mẹ, vợ , chồng, con cái nhà mày đấy… ây… ấy !

Mày mà ăn thì con gà nhà bà thì ăn một miếng chết một đứa, ăn hai miếng chết hai đứa, ăn ba miếng chết ba đứa, và ăn cả con gà đó sẽ chết cả nhà cả ổ nhà mày.

Cha tiên nhân ông nội, ông ngoại, ông dại, ông khôn, đồng môn chi rễ nhà mày nhá ! Mày gian tham đã ăn trộm ăn cắp con gà mái nhà bà. Rồi ra, nhà chúng mày chết một đời cha, chết ba đời con, đẻ non, đẻ ngược, chân ra trước đầu bước ra sau, để sót nhau. Chết mau, chết sớm ! Chết trẻ, đẻ ngang nhá.

Bốn thằng cầm cờ xanh đứng đầu ngõ, ba thằng cầm cờ đỏ đứng đầu làng, đưa đám tang cả nhà mày ra đồng làng chôn đấy. Mày có khôn hồn, mang trả ngay con gà đó cho bà, kẻo không bà đào mồ, quật mả cao tằng tổ khảo, cao tằng tổ tỉ, thúc, bá, đệ, huynh, cô, dì, tỷ, muội nhà mày đấy.

Hôm nay bà chửi một bài, ngày mai bà sẽ chửi hai lần liền. Bà chửi cho mày hóa điên, bà rủa suốt tháng liên miên không ngừng. Bây giờ bà mệt quá chừng, bà về cơm nước, nhớ đừng quên a… Muốn sống thì thả gà ra, lạy bà hai lạy, bà tha cho mày”


CHỬI MẤT GÀ BẰNG TOÁN HỌC

"Tiên sư đứa nào bắt mất con gà nhà bà. Gà ở nhà bà là con công, con phượng. Gà về nhà mày thành con cáo, con diều. Bà... bà... bà... U cho con xin chén trà để con chửi tiếp... Bà chửi theo kiểu toán học cho mà nghe nhá... Bố mày là A, mẹ mày là B, bà cho vào ngoặc, bà khai căn cả họ nhà mày... Bà rủa mày ăn miếng rau, mày ói ra miếng thịt, mày tắm trong ao, mày chết chìm trong chậu...

Bà khai căn cả họ nhà mày, xong rồi bà tích phân n bậc, bà bắt cả hang, cả hốc, ông cụ, ông nội, cả tổ tiên nhà mày ra mà đạo hàm n lần.

Ái chà chà...mày tưởng à. Mày tưởng nuốt được con gà nhà bà là mày có thể yên ổn mà chơi trò "cộng trừ âm dương" trên giường với nhau à.... Bà cho trị tuyệt đối hết cả họ chín đời nhà mày. Cho chúng mày biết thế nào là vô nghiệm, cho chúng mày không sinh, không đẻ, không duy trì được nòi giống nữa thì thôi... Bà sẽ nguyền rủa cho chúng mày đời đời chìm đắm trong âm vô cực, sẽ gặp tai ương đến dương vô cùng. Cho chúng mày chết rục trong địa ngục, cho chúng mày trượt đến maximum của sự vô hạn tối tăm...

À, mày chơi toán học với bà à...U cho con xin thêm chén nuớc ạ... Thằng khốn ấy nó là tiến sĩ toán, không chửi bằng toán học thì không xong với nó U ạ... Vâng, vâng, U rót cho con đầy đầy vào, nữa đi... để con lấy hơi chửi tiếp, con sẽ chửi từ số học lên tích phân, xuống đại số rồi sang hình học cho U xem...

Tiên sư nhà mày, mày tưởng ngày nào mày cũng rình mò tiệm cận hàng rào nhà bà là bà không biết đấy phỏng? Bà là bà giả thiết mày ăn cắp hơn hai chục con gà nhà bà,... Mày về mày vỗ béo để nhồi đường cong cho con vợ mày. À..., à..., mày vẽ nữa đi, mày tô nữa đi. Mày tô, mày vẽ, mày nhồi cho đến khi đường cong con vợ mày nó nứt toác, nó gẫy khúc ra, chọc xiên chọc xẹo đi, rồi đi lên đi xuống nữa vào, rồi có ngày con vợ mày sẽ hạ vuông góc một mạch thẳng xuống nóc tủ... thôi con ạ... Ái chà chà... mày tưởng mày dùng cả toán học mày vẽ thòng lọng mày bắt gà nhà bà mà được à ?

Vâng, vâng,... em về ngay đây, anh chờ em chửi thêm cho nó một chút. Mẹ cái thằng... Anh ăn trộm đuợc hai con gà à... Hi hi...chờ em với nào. Chào U con về ạ... Cho con gửi tiền U mấy chén nuớc chè... Chẳng hiểu thằng chồng con kiếm đuợc hai con gà lạc ở đâu... Hi hi...

Sưu Tầm

Bản 1 – (mầu sắc Bắc Kỳ).

“Làng trên xóm dưới, bên ngược bên xuôi, tôi có con gà mái vàng. Sáng nay tôi còn cho nó ăn, thế mà bây giờ nó bị mất ! Ai bắt được thì cho tôi xin, nếu không trả thì tôi chửi cho mà nghe đấy… ấy… ấy !

Bố cái thằng chết đâm, cha cái con chết xỉa ! Mày day tay mặt, mày đặt tay trái, nỡ ăn cắp của bà đây con gà. Này bà bảo cho chúng mày biết: Thằng đứng chiếu ngang, thằng sang chiếu dọc, thằng đọc văn tế, thằng bế cái hài, thằng nhai thủ lợn… Con gà nó ở nhà bà là con gà. Nó bị bắt trộm về nhà mày thì thành con cú, con cáo, con thành đanh mỏ đỏ, nó sẽ mổ mắt, xé xác ông, bà, cha, mẹ, vợ , chồng, con cái nhà mày đấy… ây… ấy !

Mày mà ăn thì con gà nhà bà thì ăn một miếng chết một đứa, ăn hai miếng chết hai đứa, ăn ba miếng chết ba đứa, và ăn cả con gà đó sẽ chết cả nhà cả ổ nhà mày.

Cha tiên nhân ông nội, ông ngoại, ông dại, ông khôn, đồng môn chi rễ nhà mày nhá! Mày gian tham đã ăn trộm ăn cắp con gà mái nhà bà. Rồi ra, nhà chúng mày chết một đời cha, chết ba đời con, đẻ non, đẻ ngược, chân ra trước đầu bước ra sau, đẻ sót nhau. Chết mau, chết sớm! Chết trẻ, đẻ ngang nhá.

Bốn thằng cầm cờ xanh đứng đầu ngõ, ba thằng cầm cờ đỏ đứng đầu làng, đưa đám tang cả nhà mày ra đồng làng chôn đấy. Mày có khôn hồn, mang trả ngay con gà đó cho bà, kẻo không bà đào mồ, quật mả cao tằng tổ khảo, cao tằng tổ tỉ, thúc, bá, đệ, huynh, cô, dì, tỷ, muội nhà mày đấy.

Hôm nay bà chửi một bài, ngày mai bà sẽ chửi hai lần liền. Bà chửi cho mày hóa điên, bà rủa suốt tháng liên miên không ngừng. Bây giờ bà mệt quá chừng, bà về cơm nước, nhớ đừng quên a… Muốn sống thì thả gà ra, lạy bà hai lạy, bà tha cho mày”

Bản 2 – (màu sắc Miền Trung, xứ Huế):

“Cao tằng tổ đĩ, cao tằng tổ khảo, cố tổ gia tông cả ông, cả bà, cả cha, cả mẹ, chú bác, anh em, họ nội họ ngoại, xa gần ân ái, họ gái họ trai, dưới âm phủ đội mũ mà đi lên, trên thiên đàng xếp hàng đi xuống, bây hãy vén mái tai, gài mái tóc, đặng chống tai lên cho rõ, chống cửa ngõ cho cao, chặt hàng rào cho thấp để mà nghe tao chửi đây này:

Tam canh mụ đội, xóm hội xóm phường, xóm trước xóm sau, xóm trên xóm dưới, lư hương, bát nước, chiếu trải giường thờ, tau bới mả cha bay rung rinh như thuyền mành gặp sóng, tau nín như nín địt, tau dập như dập cứt mà bay cứ bươi ra, bay chọc cho tau chửi. Tau chửi cho tan nát tông môn họ hàng cái quân khốn khiếp, cái quân vô hậu kế đợi đã ăn của tau bảy con gà xám, tám con gà vàng. Bây ăn chi mà ác nhơn ác nghiệp. Bây ăn bằng nồi đồng, bây ăn bằng nồi đất, bay ăn lật đật, bay ăn ban đêm, bữa túi. Bây ăn cho chồng bây sợ, cho con bây kinh, bây ăn cho ngả miếu sập đình, cho mồ cha bây chết hết để một mình bây ngồi đó bây ăn. Đồ quân ăn chó cả lông, ăn hồng cả hột. Cái quân không sợ trời đánh thánh đâm, trời đánh thánh vật. Bây ăn mần răng mà hết một chục rưỡi con gà?”

Bản 2 “bis” - Và đây thêm một vài câu cũng với bản sắc của đất Huế để quí vị rộng đường “tham khảo”:

“Cha cố tổ mười đời cha bay. Bây ăng chi mà ăng ác rứa? Bây tham chi mà tham vô hậu rứa? Cứ sáng sáng mấc cái thóng, đứng bóng mấc cái niêu, chiều chiều mấc lẻ củi, túi túi mấc con gà. Diều dọi chi cho cam, một bầy ba cong gà xám, tám cong gà vàng, rứa mà hắng ăng mất môột cong, chừ đếm đi đến lại, coòng mười môột con. Bay ăng chi mà ăng vô hậu rứa ? ….”

Bản 2 “bis, bis”

“Hôm qua tau mất con gà mái dầu khoang cổ. Hôm ni tau mất con gà mái nổ khoang bông. Con mô bắt là gái trốn chúa lộn chồng. Thằng mô bắt là đàn ông ba đời đi ở đợ… Tụi bay hãy vén mái tai, gài mái tóc, chống cửa ngõ cho cao, chặt hàng rào cho thấp mà nghe tao chửi… Bay ăn cho chồng bay sợ, cho vợ bay kinh, bay ăn cho ngã miếu sập đình, cho mồ cha bay chết hết, để một mình bay ăn.”

Phần chửi thêm (Extra / Bonus)

(Cách chửi này văn minh hơn một chút, có thêm phần “tân tóan học!!!” Đọc cho dzui !!! hihi…)

1- “Tiên sư đứa nào bắt mất con gà nhà bà, gà ở nhà bà con công con phượng, gà về nhà mày thành con cáo con diều hâu.

Bố mày là A, mẹ mày là B, bà cho vào ‘ngoặc’ bà ‘khai căn’ cả họ nhà mày. Bà rủa mày ăn miếng rau mày ói ra miếng thịt, mày tắm trong ao mày chết chìm trong chậu.

Sau khi bà ‘khai căn’ cả họ nhà mày xong rồi, bà ‘tích phân n bậc,’ bà bắt cả hang, cả hốc, ông cụ ông nội, cả tổ tiên nhà mày ra mà ‘đạo hàm n lần.’ ”

2- “Ái chà chà ! Mày tưởng nuốt được con gà nhà bà là mày có thể yên ổn mà chơi trò ‘cộng trừ âm dương’ trên giường với nhau à. Bà là trị cho ‘tuyệt đối’ hết cả họ chín đời nhà mày, cho chúng mày biết thế nào là ‘vô nghiệm,’ cho chúng mày không sinh, không đẻ, không duy trì được nòi giống nữa thì thôi.

Bà sẽ nguyền rủa cho chúng mày đời đời chìm đắm trong ‘âm vô cùng,’ sẽ gặp tai ương đến ‘dương vô tận,’ cho chúng mày chết rục trong địa ngục, cho chúng mày trượt đến “maximum” của sự ‘vô hạn’ tối tăm.

3- “Tiên sư nhà mày, mày tưởng ngày nào mày cũng rình mò ‘tiệm cận’ hàng rào nhà bà là bà không biết đấy à? Bà là bà ‘giả thiết’ mày ăn cắp hơn hai chục con gà nhà bà, mày về mày vỗ béo để nhồi ‘đường cong’ cho con vợ mày, à... à… mày vẽ nữa đi, mày tô nữa đi. Mày tô, mày vẽ, mày nhồi cho đến khi ‘đường cong’ của con vợ mày nó nứt toác, nó gẫy khúc ra, chọc xiên chọc xẹo đi, rồi đi lên đi xuống nữa vào, rồi có ngày con vợ mày sẽ hạ ‘vuông góc’ một mạch thẳng xuống ‘góc tủ.’ “

Phần phụ diễn:

Bây giờ, để cho câu chuyện chửi có vẻ “bình quyền, bình đẳng,” thử đổi lời chủi của “Bà Mất Gà” thành lời chửi của “Ông Mất Ngỗng” để nghe xem cái giọng chửi nó khác nhau ra làm sao nhé (???):

“Tiên sư đứa nào bắt mất con Ngỗng vàng nhà ông, Ngỗng ở nhà ông là con công con phượng, Ngỗng về nhà mày thành con cáo con diều hâu.

Bố mày là A, mẹ mày là B, ông cho vào ngoặc ông ‘khai căn’ cả họ nhà mày. Bà rủa mày ăn miếng rau mày ói ra miếng thịt, mày tắm trong ao mày chết chìm trong chậu.

Ông ‘khai căn’ cả họ nhà mày xong rồi, ông ‘tích phân n bậc,’ ông bắt cả hang, cả hốc, ông cụ ông nội, cả tổ tiên nhà mày ra mà ‘đạo hàm n lần.’

Ái chà chà, mày tưởng nuốt được con Ngỗng nhà ông là mày có thể yên ổn mà chơi trò ‘cộng trừ âm dương’ trên giường với nhau à. Ông là trị cho tuyệt đối hết cả họ chín đời nhà mày, cho chúng mày biết thế nào là ‘vô nghiệm,’ cho chúng mày không sinh, không đẻ, không duy trì được nòi giống nữa thì thôi.

Ông sẽ nguyền rủa cho chúng mày đời đời chìm đắm trong ‘âm vô cùng,’ sẽ gặp tai ương đến ‘dương vô tận,’ cho chúng mày chết rục trong địa ngục, cho chúng mày trượt đến ‘maximum’ của sự ‘vô hạn’ tối tăm.

Tiên sư nhà mày, mày tưởng ngày nào mày cũng rình mò ‘tiệm cận’ hàng rào nhà ông là ông không biết đấy à ? Ông là ông ‘giả thiết’ mày ăn cắp hơn hai chục con Ngỗng vàng nhà ông, mày về mày vỗ béo để nhồi ‘đường cong’ cho con vợ mày, à... à… mày vẽ nữa đi, mày tô nữa đi. Mày tô, mày vẽ, mày nhồi cho đến khi ‘đường cong’ con vợ mày nó nứt toác, nó gẫy khúc ra, chọc xiên chọc xẹo đi, rồi đi lên đi xuống nữa vào, rồi có ngày con vợ mày sẽ hạ ‘vuông góc’ một mạch thẳng xuống ‘góc tủ.’ ”

Hình như là cái “âm điệu” chửi của mấy ông không “hay” bằng của mấy bà (?)

Xin tạm ngừng, chửi đến cỡ này thì tên Việt gian cộng sản (?) đã lỡ “bưng” con gà (hay ngỗng) về xài tạm (vì sợ làm phiê?n những người hàng xóm rộng lượng, mất công bố thí !) thì cũng chịu thôi, đem gà trả lại để khỏi nghe, nuốt hổng dzô!!!

Như đã trình bày, đây chỉ là tiếng chửi của người bị mất một con gà. Còn những người bị mất nhửng cái to tát hơn (chồng, mất con, mất nhà, mất đất, mất hết tài sản, mất hết cả tương lai hy vọng và mất… nước) thì họ phải chửi gấp một trăm mấy ngàn lần mới hả dạ được!!!

Ngòai ra, tôi chưa “xiu lục” được (tìm hòai hổng ra!) “văn hóa chửi” của người Miền Nam. Xin quí vị quan tâm sửa sai và bổ túc thêm cho.

Hết ý kiến!

Chửi Mất Gà

qv0625.jpg

Một cảnh nhà ở Bắc phần thời xưa: từ trái sang, bà, mẹ, và nguời ở bế con nhỏ.


Lời toà soạn: Bài văn độc đáo này dẫn dắt độc giả chúng ta trở lại khung cảnh của làng quê ngoài Bắc VN ít nhất là bảy tám chục năm đã qua, truớc cả cuộc kháng chiến Kháng Pháp của dân tộc. (QV)

Một buổi sáng ở làng Bùi Trên( họ Bùi ở thôn trên), hiu hắt cùng mây trắng trời xanh, vắng hẳn tiếng gà quang quác, tiếng lợn eng éc. Buồn nẫu ruột hơn nữa là đầu thôn cuối xóm chỉ tòan nhà tranh vách đất, im ắng đến u tịch. Giữa hàng xóm láng giềng cũng có hàng giậu thưa, vẩn vơ dăm con bươm bướm trắng, vài ba chú chuồn chuồn vật vờ. Vào buổi sáng hôm ấy, sau cây chanh thấp tè, rõ mồn một là chị phó rèn, áo sồi váy đũng, đang nhởn nha ngồi chồm hổm sàng gạo với cái nia bé con con. Thỉnh thỏang chị nhón một hạt thóc như bắt chấy, bắt rận, bỏ vào miệng nhậm gấm, cắn cái đốp rồi nhổ bẹt xuống đất. Lâu lâu ngẩng đầu lên nhìn ra góc vườn, như ngóng đợi tìm kiếm, thỉnh thỏang lại bâng quơ chép miệng một cái như gọi gà, ới vịt. Lạc lõng bên thửa cà là lứa gà con, con trắng con nâu, kêu chiêm chiếp, mặt mày ngơ ngác…như gà con mất mẹ.

Cái sân gạch thẻ nhà bên này cũng thiếu vắng hẳn ‘anh’ vện( con chó vằn vện), gác đầu lên hai cái chân bắt chéo, mắt lim dim hay chị mướp lười biếng nằm dài phơi mình dưới nắng hanh vàng, chốc chốc lại thè lưỡi liếm lông, liếm cẳng. Ấy là cơ ngơi của nhà ông bà Cửu ( cửu phẩm), khác chòm xóm chung quanh với ba gian hai chái, trăm sự cũng qua một tay bà Cửu thu vén cơ ngơi nhà chồng, có một dạo nhà cửa ruộng vườn bề thế nhất làng, nhất xứ. Vào cổng là vườn, phải qua cái ao đầy cá trắm, con nào con nấy béo nần như đang có chửa, lại có cả cây cầu gỗ lùn tịt để rửa rau, vo gạo, vỗ váy, giặt yếm, đập chiếu… Còn ông Cửu, nghe nói xưa kia làm thông ngôn cho lính thợ với Tây, áo gấm về làng, áo dạ khuy đồng, mũ “chào mào”, giầy “săng-đá”. Chó cắn mèo cào, mua không được chân lý trưởng, ông quơ được cái…cửu phẩm. Nói cho ngay, từ hàng nhất phẩm đến thất phẩm là cho các quan thông kinh sử như quan sán sát, quan đốc học; còn bát phẩm và cửu phẩm cho hàng thứ dân. Chả phải nói mẽ, nghe các cụ kể lại, chạy được hai cái…danh ôn này cũng hốc người ra chứ chẳng ngon sơi gì, mã phu mang thông tri của quan huyện trình tấu chạy vào tới kinh đô Huế. Quan bộ lễ săm soi cả năm trời, xin sắc chỉ, sắc phong, nói dối phải tội, mang về đến làng cũng cả hai, ba năm…

Vừa lúc bà Cửu vén cái mành cửa bước ra, tay che mắt vì cái nắng hướng đông, đóan chừng là giờ mẹo. Không một ngọn gió, cây như đứng im, lá không lay động. Trời như khô, lại hâm hâm, chắc có cơn giông, cơn bão âm ỉ đâu đây. Vừa định quay vào thì cũng vừa lúc chị láng giềng nhìn qua bắt gặp. Mà sắp có giông tố thật, từ nẫy đến giờ chị chỉ đợi có bấy nhiêu, trong cái vắng lặng của trời cao đất rộng, chỉ thiếu tiếng sáo diều vi vu. Chị phó rèn, cái yếm đã sẫm màu cháo lòng phơi ra nhờ cái áo nhuộm củ nâu cũ kỹ, cái váy bằng vải đen mộc thả lửng lơ dưới gót chân. Chị nức tiếng chanh chua ở cái thôn này, chị đang như con diều hâu từ trên cao lặng lờ sà xuống hớt con gà con, nhưng cũng không quên dang cánh đảo một vòng thăm chừng. Chị đỏng đảnh mào đầu bâng quơ bằng câu chửi tự biên tự diễn : “ Mả bố đứa nào bắt gà của bà! Mày bắt gà bà, mày băm, mày bổ, mày rỉa, mày rói, mày gói, mày dâng cho thằng trắng râu đầu bạc, nó sắp sửa ngồi bát bình hương nhà mày nó xơi nhá ” .

Còn ai trồng khoai đất này, “thằng trắng râu đầu bạc lại sắp sửa ngồi bát bình hương” là chính ông Cửu đây chứ ai. Đang nằm bẹp dí bên khay bàn đèn thuốc phiện trên căn nhà ngang, ông nghe vanh vách, không sót một tiếng…Dưới gầm phản, con vện cũng hãi quá thể, cụp đuôi nằm co rúm. Thế nhưng lúc này, ông đang lơ mơ về một thời vang bóng cùng ngẫm chuyện nhân sinh, nào là sống ở trên đời chả được mấy, như cánh hoa sớm nở tối tàn. Không ăn chơi cũng thiệt, chẳng ăn cũng thiệt vào thân, chẳng chơi cũng già, mà đã ngập vào chốn ăn chơi, tâm giao tri kỷ cũng chẳng ngòai khi buồn thuốc phiện, lúc chơi cô đầu này kia…

Ông Cửu năm nay mới ngòai bốn mươi, vậy mà con cháu trong nhà vô phép vô tắc gọi là…“cụ”. Một phần vì cụ khó tính khó chiều, dở người lại hay gắt như mắm tôm. Một phần khác, thọat đầu cụ bỏ ra vài hào, làm vài khói bên cái bàn đèn gạo ngòai phố huyện, rồi cụ bị ả tiên nâu nó hành lúc nào không hay nên hom hem, lụ khụ và khọm trông thấy. Hôm nay dậy muộn, cụ nằm khểnh trên cái phản mộc nghe chị hàng xóm mắng chó chửi mèo, quên tiệt đi mất là từ sáng đến giờ chưa làm ‘ngao’(vỏ ngao, hến dùng để đựng nhựa thuốc phiện) nào. Tiện tay quơ cái dọc tẩu, cụ phồng má lấy hơi thổi phù phù vào cái đít dọc tẩu cho thông hơi thông điếu, chậm rãi hơ cái nõ qua ngọn đèn dầu lạc cho vừa đủ nóng, tiêm một viên bi thuốc phiện lấy ra từ cái hộp dẹt tròn, dấu in hình nổi “Bà Đầm Xòe” với cái tít: “Công Quản Nha Phiến Đông Dương“ mà cụ đã cậy cục mua ở phố Khâm Thiên, tận Hà Nội. Cụ lào thào: “Rõ đáng đời”. Ấy là cụ trộm vía rủa thầm tiện nội cụ đấy thôi.

Từ nãy đến giờ bà Cửu, mới bảnh mắt ra chả biết nếp tẻ gì, mà chuyện đá thúng búng nia gì đây, đồ cái thứ gái góa ăn không ngồi rồi, ngứa chôn ngứa mồm mang ông chồng già bà ra mà réo. Trong đầu bà lầng quầng: “Giời ơi là giời, bỏ mẹ nó rồi, gặp bà thì cứ bỏ xác. Bà báo đời cho mày biết…”. Lạt mềm buộc chặt, để đấy rồi bà sẽ văm như văm cám, bà sẽ bằm nó ra như bằm chuối cho lợn ăn. Nhưng bà im thin thít như thịt nấu đông, bà đang ú ớ, chưa biết tung hê lời ăn tiếng nói sao cho mát mẻ, cho gọn gàng nề nếp. Thì cũng vừa lúc chị phó rèn đứng lên vén váy, gấu áo giắt dưới cái dải rút, hai tay vỗ đen đét vào nhau, chân nhún nhẩy, ngóac mồm gào tóang lên, âm thanh lỏang xỏang, chan chát như búa tạ đập xuống đe: Làng trên xóm dưới, bên ngược bên xuôi, tôi có con gà mái xám. Hôm qua tôi còn cho nó ăn, thế mà bây giờ nó bị mất. Ai bắt được thì cho tôi xin, nếu không trả thì tôi chửi cho mà nghe. Ấy…ấy…

Cụ Cửu hóng mắt qua phên tre nhìn sang bên kia, vừa lúc chị phó rèn ngúng nguẩy quẹt miệng và co cái đầu gối lên. Giời ạ, người ngợm gầy như que tăm…Cụ lại lẩn mẩn về những ngày tháng thoi đưa, ngày ấy cô nàng có da có thịt, đang lom khom múc nước nhờ ao nhà cụ, áo cánh phin nõn cổ tròn, lồ lộ cái gáy trắng như cùi bưởi. Quần lĩnh đen, gấu vén lên tận bắp đùi, cổ chân tròn chịa như bắp chuối non. Nghe tiếng chân cụ lao xao đi đến, ngày ấy cụ mới ở bên Tây hồi cố quốc, cô nàng lờ đờ như chị vịt chống gậy, vậy mà ngoắt một cái cắm đầu le te chạy vù vào nhà và cụ chỉ biết cười tủm với những đong đưa cùng gió thỏang mây trôi…

Ấy là chị đang nhỏ nhẹ xưng “tôi” và sắp kiếm chuyện chan tương đổ mẻ gì đây. Mà chuyện gì mới được chứ, bà Cửu đang phân vân thì chị hàng xóm như chờ đợi cái thời cơ này từ lâu lắm. Bây giờ ấm ức giận hờn này mới được bung ra như ngô rang, lên bổng xuống trầm với giọng ngọt như mía lùi, mát hơn đường phèn. Chị tung tẩy:

Bố cái thằng chết đâm, cha cái thằng chết xỉa. Mày day tay mặt, mày đặt tay trái, nỡ ăn cắp của bà đây con gà. Này bà bảo cho chúng mày biết: Con gà nó ở nhà bà, nó bị bắt trộm về nhà mày thì nó thành con cú, con cáo, con “thành đanh mỏ đỏ”, nó mổ mắt xé xác ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con cái nhà mày đấy. Ấy…ấy..Mày ăn thịt con gà nhà bà thì mày ăn một miếng, chết một đứa, ăn hai miếng chết hai đứa, ăn ba miếng chết ba đứa và ăn cả con gà đó sẽ chết cả ổ nhà mày…

“Cái thằng chết đâm, cha cái thằng chết xỉa” đang thong thả “day tay mặt, đặt tay trái” khẽ nhấn nhấn chất dẻo vừa đủ chặt sau đó nhẹ nhàng châm lửa. Trong cái vắng tanh vắng ngắt của gian phòng ẩm thấp, gần như cụ nghe tiếng chửi xéo, nghe sèo sèo như của chất nhựa quánh gặp nóng kêu riu riu. Trong cái giây lát yên ắng chờ đợi sắp gặp gỡ ả phù dung, cụ thót bụng lấy hơi từ lục phủ ngũ tạng. Đưa cái đít dọc tẩu ngang cửa miệng, thông qua cái yết hầu nhấp nhô lồi lõm, cụ hít vào một chập thật lâm ly quy phượng như lõ cả bộ điếu ra. Tiếng ống điếu kêu ro ro ròn tan, mùi thơm ngào ngạt tỏa khắp nhà. Cụ lờ đờ nhả ra từng cụm phùn phụt như khói tầu hỏa giữa gian phòng thênh thang, không một bóng người. Trừ con thạch thùng đang đờ đẫn trên vách tường, bỗng nó buồn tình tặc lưỡi một tiếng “tắc” vô nghĩa. Nhưng nếu nhìn kỹ, cái màng cổ họng trăng trắng của nó đang phập phồng, kéo lên kéo xuống, thì ra nó cũng đang hít hít chút hơi hám cơm thừa canh cặn của cụ.

Bên kia hàng rào, tiếng chửi chí chát của chị phó nề lại vang vọng như gọi hồn:

Bốn thằng cầm cờ xanh đứng đầu ngõ, ba thằng cờ đỏ đứng đầu làng, đưa đám tang cả nhà mày ra đồng làng chôn đấy. Mày có khôn hồn mang trả ngay con gà đó cho tao, kẻo không tao đào mồ, quật mả cao tầng tổ khảo, cao tằng tố tỉ, thúc, bá, huynh, đệ, cô, dì, tỉ muội nhà mày đấy.

Bất giác cụ nhăn mặt vì chả hiểu chị này hát hỏng như kéo đàn nhị, đàn gáo với: “cờ xanh đứng đầu ngõ, cờ đỏ đứng sau nhà, cờ vàng dựa bên hữu, cờ trắng nghiêng bên tả”. Bố khỉ, cứ như hát cô đầu không bằng,.. cụ lại dây dưa liên tưởng nhớ về chuyện cũ: Dạo ấy chị đây cũng đẹp gái, đẹp nết ra phết chứ đâu có đùa, lâu lâu dòm cũng hay gớm, cái yếm sồi rộng toang tóac đựng hai quả bưởi to đùng, bắp đùi to bằng con cá trắm, đít chành bành như cái lồng bàn…Trong khi tiện nội cụ, gầy thầy cơm, ăn thủng nồi trôi dế, người vẫn đuỗn ra như con lươn, con trạch. Cụ lại nghĩ đến câu nói của ông chánh tổng Đòan: “Các mụ nhà ta đều giống miếng thịt ngan già luộc dối, đã hoi lại dai như chão”. Đầu óc mông lung như sương khói, như ếch vồ hoa mướp, cụ vẩn vơ mơ tưởng đến…Và cụ dặn mãi mới ra câu thâm nho của các cụ đồ xưa là thê..thê gì…như thê bất như thiếp, thiếp bất như tì, tì bất như đạo, đạo như đạo bất đạo. Bỗng cụ khóai chí tử cười khan, vỗ đùi đét một cái như bị muỗi đốt…

Vườn rộng ao sâu, cụ vẫn lắng nghe chị phó réo rắt chửi, chị có thể chửi cả buổi, cứ như với cái điệu văn vẻ có tông, có tích, cứ thượng tổ, hạ tổ nhà hàng xóm đến tàn cây héo lá thì mồ mả tổ tiên nhà cụ cũng phải nhẩy dựng đứng lên. Buồn buồn gãi khô búng ghét, chả biết làm gì, cụ lại vểnh tai nghe chị phó nề chửi tiếp: Cha tiên nhân ông nội, ông ngọai, ông dại, ông khôn, đồng môn chi rễ nhà mày nhé. Mày gian tham đã ăn trộm, ăn cắp con gà nhà tao. Rồi ra, nhà chúng mày chết một đời cha, chết ba đời con, đẻ non, đẻ ngược, chân ra trước, đầu ra sau, đẻ sót nhau. Chết mau chết sớm, chết trẻ đẻ ngang nhé…

Đẻ với đái, đến đây thì giời chẳng chịu đất, đất phải chịu giời, bên này bà Cửu than thầm: “Ối giời cao đất dầy ơi, đúng là giống mồm chó vó ngựa, đúng là cái con mụ nạ dòng chết bầm chết tiệt này nó chửi gà, chửi qué đến …thằng cả nhà bà thì phải”. Giận bầm gan tím ruột, như muốn đào mồ đào mả ông cố nội nhà nó lên, nhưng bà phải vào nhà xách cơi trầu ra làm một miếng cho thấm giọng cái đã. Rồi bà ngồi bệt xuống bên hè, vừa têm trầu vừa chửi vọng qua bên kia: “ Cha tiên nhân tam tứ đại đồng đường nhà mày, đồ quạ tha ma bắt, đồ ăn gian nói dối, dám đổi trắng thay đen, dám vu oan giá họa cho nhà bà. Bà truyền bảo ba hồn chín vía cho nhà mày biết: Quân điêu ngoa đi ngang về tắt, quen thói giăng hoa chim chuột, không chết treo chết chém thì cũng chết sông chết ngòi, chết đường chết xá, mưa sa gió dập đời mày. Ba vạn chín nghìn âm binh quen dựng điều đặt chuyện, cũng không cứu nổi cái tội mỏng môi hay hớt của m..à..y…m…à..y..đấy nhá !”

Chị phó rèn mặt đỏ lên phừng phừng, rừng rực như cái lò nung bốc khói. Chị cũng bốc, tay vung miệng chửi, chửi đơn, chửi kép, chửi chùm, chửi lợp. Chị chửi có gai, có ngạnh, cho thỏa chí bình sinh là dân đồng chua nước mặn nhưng cũng văn tế, văn vẻ như ai, mồm miệng nước bọt, nước rãi dẻo quánh như nhựa sung, nhựa mít :

Con gà của tao nuôi bằng gạo, bằng thóc, vậy thằng cha nhà mày đã bắt con gà của tao. Nó là con gà, con qué, nó về nhà mày là con cú, con cáo, nó mổ gan lòi ruột đứa nào ăn miếng thịt gà nhà tao. Nó là thành đanh đỏ mỏ rút ruột rút gan nhà mày ra. Mày không thả gà nhà tao ra, tao đóng ghế 9 tháng 10 ngày, buổi sáng tao chửi, buổi chiều tao tế, buổi trưa tao hú, buổi tối tao nguyền. Tao rủa cho cây vàng lá, cho quả chột thui, cho thần trùng đến rút từng khúc ruột cha, ông, vợ, con nhà mày ra.”

“…vợ con nhà mày…”, đúng là vợ dại cái mang, số là cụ chưa đến cái tuổi ngũ…

ngũ thập tri thiên mệnh thì phải, chưa chi tiện nội ( vợ) cụ đã nhanh nhẩu đỏang khuân cái kim tĩnh bằng gỗ vàng tâm đặt lù lù ở giữa nhà. Riêng cụ chả dại về chầu ông bà ông vải vội, vậy mà tiện nội cụ đã nghe thằng cả súi bẩy, mang cái quan tài vàng khè về đặt chềnh ềnh ở giữa nhà để báo cô, báo hiếu. Cụ thấy cụ còn khỏe như vâm, còn tiện nội cụ thì ôi thôi, tối tối cứ ho khan, ho đặc, nửa đêm nửa khuya cứ lục đục đi giải xòanh xọach, tim gan phồi phẻo ắt hẳn muốn ấm ớ gì đây. Nói dại chứ tiện nội có…mắt trắng dã, tay bắt chuồn chuồn thì hai bố con cụ cứ trơ mắt trẫu nhìn nhau, của khôn người khó, nhà lại neo người. Cớ sự này thì cụ phải tính, không tính không xong, ấy là chuyện thằng cả…Cụ đang bí ngô, bí khoai với đường thê nhi của ông con thì cũng may. Gặp lúc mây chiều gió sớm, mới ra giêng đây, bà chánh tổng làng “Bùi Dưới” bắn tiếng với tiện nội cụ về cô gái rượu của họ.

Đất Nam Định cụ, cả hai làng này chỉ có một họ Bùi, làng Bùi Dưới( dòng họ Bùi nhà ở thôn dưới) lại…ngọng líu ngọng lo mới rõ khổ nên gái làng mới ế chỏng gọng, thế là trâu đi tìm cọc, gái Bùi Duới cứ nhè trai Bùi Trên mà gá nghĩa. Hương ước làng còn ghi lại rành rành như chuyện xưa tích cũ, nói chẳng ai tin mới rõ khỉ. Mà ả “Bùi Dưới” đây, cụ biết thừa bứa ra đấy, răng đen hạt na, tóc vấn trần nhưng chỉ cái tội lớn tuổi nhầng nhầng, người ngợm vừa gầy vừa khô. Ấy là khô chân gân mặt, các cụ ta xưa dậy là đắt tiền mấy cũng mua, như mua trâu mua lợn vậy. Chuyến này cọc đi tìm trâu, cụ Cửu không…”đặt cọc” cũng không xong, cứ nhìn cái cơ ngơi nhà ấy thì rõ ngay tán tàn, nhà năm gian hai trái, ngói lợp tòan bằng ngói ta, đều tăm tắp như vẩy rồng, rêu phong cổ kính. Riêng cái sân gạch mầu gan gà cũng khỏi chỗ chê, lát gạch vồ chắc khừ, viên nào viên nấy cứ vuông bằn bặt gối đầu lên nhau, nung chín đỏ tím lịm, trông thấy mà mát cả mắt.

Đến nước này thì ông con cụ như chuột sa chĩnh gạo chứ còn gì nữa, ruộng thượng đẳng điền, chuồng rậm rịch lợn đàn, trâu nghé. Riêng cụ thì lọt sàng xuống nia, đánh đổ đánh tháo ngày cũng được mươi ngao. Mà cũng chẳng biết cái thằng mít đặc con cụ có ưng không mới rõ khỉ, chẳng cần làm vài bi đi mây về khói, nói phải củ cải cũng phải nghe, vì cụ biết thằng con cụ sợ bố một phép. Trò đời cái giống đàn ông, con trai như cái nơm( nơm để bắt cá ở miền Bắc VN) chòm chọp, úp xuống là cũng đâu vào đấy cả. Nếu như tiện nội cụ rằm cũng ừ, mười tư cũng gật thì cụ sẽ bảo ra chợ huyện sắm cơi trầu, ít bánh cốm, đôi gà trống thiến để xin cái lễ xem mắt. Sau đám cưới, làng nước trông ra, quan viên trông vào, chắc phải nhúng con vện vào nồi nước sôi quá, kèm dăm chai rượu Ty của nhà nước Bảo Hộ thì nhà cụ mới thông thóang ra được.

Tiện nội cụ bắt qua chuyện về cô con dâu tương lai, mặt mày thô vụng, người dài như con sếu, chẳng biết vác về có được tích sự gì không, hay lại nằm ườn chẩy thây, chẩy nước ra đấy. Khi này cụ mới xuống giọng, bà đừng có vẽ chuyện với trông mặt bà bắt hình dong, bà chống mắt lên mà xem, chim khôn thì khôn cả lông, khôn cả cái lồng người sách cũng khôn. Hai vợ chồng nhà cụ nói chuyện như bánh đa bánh đúc, bà lại lải nhải với cụ: Ai lại đi xem mắt vợ mang con gà trống… thiến, hai đứa làm sao mà đẻ đái được nữa đây…Rồi thì cái hôm xem mắt vợ cho thằng cả cũng xong tất.

Xong thế nào được, bên kia chị phó rèn đang điên tiết, hai chân dẫm thình thịch xuống đất và dẫy đành đạch như đỉa phải vôi. Giận mất khôn, chị chả hiểu nghĩ sao, hai tay nắm gấu váy chị vén phứa lên như khoe của và há họng chửi tung hê:

- Tao hú ba hồn bẩy vía thằng đàn ông, ba hồn chín vía con đàn bà nào đã bắt con gà nhà tao. Thằng đứng chiếu ngang, thằng sang chiếu dọc, thằng đọc văn tế, thằng bế cái hài, thằng nhai thủ lợn. Tao gọi ông cầm cờ xanh đứng đầu ngõ, ông cờ đỏ đứng sau nhà, ông cờ vàng dựa bên hữu, ông cờ trắng nghiêng bên tả, yểm cho nhà mày đẻ con ra thì ngược, sinh cháu ra thì ngang vì dám cả gan ăn con gà mái nhà tao.

Bà Cửu không thể để con mụ tai ngược mồm loa mép giải này lên chân được nữa: Trên rừng có sơn lâm, dưới sông có hà bá, phải dần mụ này một mẻ, phải trị nó thẳng tay. Đúng là cái thứ xanh vỏ đỏ lòng, mới hôm nào đây lẻo mép nhà bác với nhà em, nào là dạo này nhà em túng bấn quá, đám Bùi Dưới ấy em chả dám dây vào, trăm sự nhờ bác cả, nay vay rá gạo, mai mượn rổ khoai. Mà con này nói ngọng nữa mới bỏ bố, nghe đến…bùi dưới, bà muốn tóet miệng…phì cười. Ấy vậy mà bây giờ giở mặt thớ lợ, nỏ mồm chua ngoa, nó muốn trêu ngươi ai đây mà độc mồm thế không biết. Thế là ba máu sáu cơn bà nổi lên, bà bỏ cơi trầu xuống, khăn vuông vắt vai, một tay chống sườn, một tay lồng lộn vung vẩy. Bà bước tới bước lui trên mặt đất thô, cứ mỗi bước đi, ngón tay trỏ cong khoằm như mỏ vẹt, lại mổ đôm đốp sang bên kia xỉa xói, như được thuê đòi nợ chiều ba mươi tết với năm cùng tháng tận. Bà chửi toang hóac: “Tổ cha chúng mày…”. Bà cũng bắt chước con nặc nô, ngừng một chút nghe động tĩnh, rồi bà lồng lộn, gân cổ như con gà chọi, bà chửi te tái:: “ Cha đẻ mẹ thằng đàn ông, con đàn bà nào quen thói bán không mua chịu, quen vay đầy giả vơi, đẻ con có mồm mà nói điêu, có mắt mà nói mò như mày…Cha đẻ nhà chúng mày nhá… ”.

Cạnh cái bàn đèn là ông đầu rau nhỏ bằng quả bưởi, cụ thong thả nhấc cái siêu nước trà đang được hâm nóng từ cái lò than, những bông hoa lửa bắn ra như pháo hoa cà, hoa cải. Chiêu trà vào cái chén tống to bằng quả bứa, cụ khẽ cất đầu khỏi cái gối mây, nghiêng mình hớp một ngụm. Cụ hãm khói thuốc phiện, rồi từ từ nhả ra những mảng khói xanh nhạt nhỏ, từng đợt từng sợi mỏng tanh như mây chiều giăng giăng đầu núi. Xong từng ấy lễ bộ, cụ khẽ trở mình nằm vật ra lơ tơ mơ như cóc ngậm thuốc lào, nhón tay bốc cái kẹo lạc, cụ bỏ tót vào mồm nhai rau ráu, ngày rộng tháng dài, cụ không có việc gì mó tay mó chân vào hơn là nghĩ vẩn vơ, vơ vẩn…Cụ tự hào hãm khói thuốc được như cụ, từ huyện lên phủ không dễ có mấy tay. Cụ cũng tốn gần nửa đời người, mất quá nửa tư gia điền sản nhà cụ chứ đâu có bỡn. Hao tài tốn của đến như lúc này đây, thuốc sái nhì, sái ba, cụ phải trộn với thuốc tễ và cam thảo. Chứ đâu ai lại như ông nhà văn, nhà báo nào đó viết dấm dớ trong “Vang bóng…” một đời hay một thời gì ấy( nói kháy tác giả Nguyễn Tuân), là có một ông, vì nghiện trà tầu mà tiêu ma sự nghiệp, phải bán nhà bán ruộng. Và cụ chợt thở ra vì cụ cũng vừa nghĩ đến gia cang nhà cụ gần đây…

Số là nhà cụ chẳng có đất ăn học, mả ông tằng bà cố cụ có táng hai con ngao bằng vôi vữa, nên dốt đặc cán thuổng như cụ chỉ ngoi đến lớp ba là hết đất, nhân đó mua được cái hàm “Cửu phẩm văn giai” của nhà nước Bảo Hộ. Cụ được xếp vào chiếu trên chiếu dưới với các quan viên ngòai đình, ngòai làng, năm này qua tháng nọ, hát xướng cô đầu, tổ tôm sóc đĩa với cụ tiên chỉ, cụ hàn. Thế nên ruộng cò bay thẳng cánh ở làng Bùi Trên của nhà cụ cứ rủ nhau đội nón mà đi, bề ngòai lúc này trông thì bảnh thật đấy nhưng chông chênh lắm vì nợ nần như chúa chổm. Thế nên sáng sớm chiều hôm, cụ cứ âu sầu nhân thế cùng cõi đời bèo nhèo như thịt trâu về chiều.

Giỏ nào quai nấy, cụ cũng như bà, cụ đang âu sầu nhân thế đến ông con, cơ ngơi nhà cụ được coi gần như nước lã ra sông, tất cả nhờ vả vào thằng cả nhà cụ đang học ở trên huyện, sang năm mà ngáp ngáp được cái bằng tiểu học thì nhà cụ mới có cơ ngóc đầu lên nổi. Tiếp nữa, cụ sẽ gửi qua Nam Định học tú tài để bắt cái chân lý trưởng, bổng lộc với thuế điền, thuế trạch, đầu gà má lợn thì cứ ối ra đấy. Ấy lại quên, còn cái thuế thân nữa, nhà nước Bảo hộ đang tuyển dân đinh đi cạo mủ cao su ở bên Tân Thế Giới. Thế nào họ chẳng thậm thụt cổng trước cửa sau với ông lý, con cụ. Ối dào, được thời thì cụ lại vểnh râu tôm lên mấy hồi.

Còn bà Cửu đang sôi tiết nhưng mặt tái dại như dây khoai kiệt nước thì chị phó nề, cái yếm khi không cũng lỏng…dây, tuột xuống cái rốn lồi bằng quả sung, cờm rớm để lộ cặp vú như hai quả mướp già, hai bầu vú xẹp lép, nổi gân xanh chằng chịt. Chị phó rèn xăn váy lên tận bẹn, cũng đầy gân xanh, gân nâu, chị cắt ngang sẻ dọc:

Hôm nay tao chửi một, ngày mai tao chửi hai. Tao chửi cho chúng mày hóa điên hóa cuồng, tao rủa suốt tháng liên miên không ngừng, năm này qua năm nọ. Bây giờ tao mệt rồi, tao vào lo cơm nước cho con tao. Muốn sống thì phải thả gà tao ra, lạy tao hai lạy, tao tha cho mày. Nếu không, ngày mai tao tế sống chúng mày cho mà biết. Chúng mày hãy vén màng tai, gài mái tóc, chặt hàng rào cho thấp mà nghe tao chửi: Bớ con nào bắt gà nhà tao là chúa lộn chồng, thằng nào ăn gà nhà tao là đàn ông ba đời đi ở đợ, đẻ con không có lỗ đít. Bớ…

Mặt trời đã ngả gần con sào, cuộc đối đáp đến hồi như phường chèo, khi chậm, khi nhanh, lúc ngừng, lúc nghỉ, lên cao, xuống thấp, lấy hơi kéo dài, thở ra ngắt quãng, vung tay đá chân đến gần giờ ngọ lúc nào chị phó rèn không hay. Chị cũng đã khản cổ, giọng rè đặc, tóc xổ ra, áo xống xộc xà xộc xệch, mồ hôi đầm đìa, mắt đỏ ngầu, sùi bọt mép thở hổn hển. Cũng ngay khi ấy, có tiếng gà gáy te te giữa trưa, bà Cửu nhớ lại các cụ dậy rằng, con gà biết những cái mà người không biết. Như gà biết gáy giờ tí, giờ dậu, gáy ròn rã là nắng, khào khào là mưa. Con người chỉ biết sau con gà là gáy giờ ngọ, thế nào trong làng cũng có đàn bà…chửa hoang và bà như vỡ nhẽ ra. Bà Cửu chợt nhớ ra chị hàng xóm đáo để tên Dần, thế là bà gân cổ lên báo đời cha con đĩ này biết tay bà. Bà lộn mề ứa gan, giật phắt cái khăn vuông vứt tọet xuống đất, bà muốn chửi vỡ làng vỡ nước, bà tế sống nhà chúng nó: “ Có là…là…hùm, là hổ thì cũng chui từ cái lỗ kín của đàn bà mà ra. Từ ông ba mươi đến con thối thây, thối xác cũng chẳng thóat được cái lỗ rò ấy. Đời con đời cháu nhà mày cũng ở cái giống ấy mà chui ra. Này, bà báo đời cho mày biết nhá, con đĩ gầy, đĩ rạc, con đĩ chửa hoang…”

Nghe tiện nội cụ tế sống với lỗ này lỗ kia, cụ ngao ngán lắc đầu…Cụ lại ghĩ đến sính lễ với đôi gà trống thiến dạo đầu năm, cụ Cửu chợt nhíu mày như suy nghĩ gì nung lắm. Cụ đẩy đưa mênh mang, tháng mười chửa cười đã tối, hôm qua thằng cả khăn gói lên huyện trọ học, cái thằng ngỗng đực dở tây dở ta, nhếch nhác với áo dài “ba ga” cụt lủn ngang đầu gối, quần trúc bâu, đầu đội mũ “cô lô nhần” và nách kẹp kè kè đôi giầy “ca na” cũ rích của cụ đã vất xó từ lâu. Cái thằng con mà cụ vẫn bấm bụng thở dài sườn sượt rằng mai kia chả làm nên tam trạng gì sất, sau khi dòm thấy mắt vợ lại diện óach như cụ năm xưa, lâu lâu lại thậm thụt xuống làng Bùi Dưới điếu đóm, lúc rổ na, khi quả mít. Chả là như hồi hôm đây, nháo nhác một cái là nó cung cúc lỉnh ra đầu ngõ lúc nào không ai hay, trong cái nhá nhem của trời về chiều, cụ kèm nhèm thấy hình như trên vai đeo cái quai bị cói, người lom khom cong xuống phía đằng trước như dấu cái gì ấy, thóang như hai tay lum khum bê…cái bu gà thì phải. Mà khỉ thật, chẻ tre không bằng ve gái, ai lại thằng nỡm đi mò gái với con gà mái đẻ cơ chứ.

*

Của đau con xót, chị phó rèn quay phắt ngược trở ra, ắt hẳn là bổ nháo bổ nhào ở đâu ra được câu chửi độc địa mới. Chẳng uốn éo vặn vẹo gì sất, chị bèn hóng mỏ qua giậu tre thưa, vớt vát câu chửi…tân thời: “ Cha năm đời mười đứa nào bắt gà của bà thì thò mặt ra nghe bà chửi thêm nhé! Mày bắt gà, mày vặt lông, mày luộc, mày nấu, mày nướng. Cho vợ, cho chồng, cho con, cho cái, khi khi khú khí với nhau nhá! Mày có khôn hồn thì trả ngay cho bà, nếu không ngày rằm, ngày một bà trồng cây chuối ngược, bà gọi thần trùng đỏ mỏ, mặt xanh nanh trắng đến bắt cả nhà mày đi! “

Chị phó rèn cắp cái nia lon ton đi vào, tiện nội cụ thóat nợ, rềnh ràng xuống bếp săm soi ba cái đầu rau với con dao, cái thớt. Cả không gian lặng ngắt như tờ, còn lại chỉ là tiếng rì rào của cỏ cây hoa lá. Bỗng con thạch thùng đi hoang tặc lưỡi một cái “tắc” như “sực tắc”… Chợt nhòm thấy mấy cái lá chanh đang ngả nghiêng trước gió, câu hò giọng hát “ Mày bắt gà, mày vặt lông, mày luộc…” thoang thỏang như tha thiết mời gọi đâu đây… Cụ như ngứa răng, cũng búng lưỡi chép miệng một cái “tách”.

Cũng không dấu gì, chả là cụ lại muốn nghe chửi mất gà thêm nữa. Rõ chán thế đấy, hóa ra cụ nghiện nghe chửi như…nghiện thuốc phiện đấy thôi. Cụ chỉ sợ mai này chẳng được nghe chửi thì buồn… Giời ạ, buồn như trấu cắn.

Lại chửi mất gà

Tiên sư đứa nào bắt mất con gà nhà bà, gà ở nhà bà con công con phượng, gà về nhà mày thành con cáo con hâu. Bà … bà…bà… U cho con xin chén trà để con chửi tiếp… Bà chửi theo kiểu toán học cho mà nghe nhá. Bố mày là A, mẹ mày là B. Bà cho vào ngoặc, bà khai căn cả họ nhà mày. Bà rủa mày ăn miếng rau mày ói ra miếng thịt, mày tắm trong ao mày chết chìm trong chậu…

Bà khai căn cả họ nhà mày, xong rồi bà tích phân n bậc, bà bắt cả hang, cả hốc, ông cụ ông nội, cả tổ tiên nhà mày ra mà đạo hàm n lần.

Ái chà chà… mày tưởng à. Mày tưởng nuốt được con gà nhà bà là mày có thể yên ổn mà chơi trò “cộng trừ âm dương” trên giường với nhau à? Bà trị tuyệt đối hết cả họ chín đời nhà mày, cho chúng mày biết thế nào là vô nghiệm, cho chúng mày không sinh, không đẻ, không duy trì được nòi giống nữa thì thôi! Bà sẽ nguyền rủa cho chúng mày đời đời chìm đắm trong âm vô cùng, sẽ gặp tai ương đến dương vô cùng, cho chúng mày chết rục trong địa ngục, cho chúng mày trượt đến maximum của sự vô hạn tối tăm… Ờ nhỉ, thôi, hôm nay thứ 7, bà nghỉ, ngày mai bà chửi tiếp.

À, mày chơi toán học với bà à…U cho con xin thêm chén nước ạ...Thằng khốn ấy nó là tiến sĩ toán lý, không chửi bằng toán học thì không xong với nó U ạ. Vâng vâng, u rót cho con đầy đầy vào, nữa đi… để con lấy hơi chửi tiếp, con sẽ chửi từ số học lên tích phân, xuống đại số rồi sang hình học cho u xem…

Tiên sư nhà mày, mày tưởng ngày nào mày cũng rình mò tiệm cận hàng rào nhà bà là bà không biết đấy phải không? Bà là bà giả thiết mày ăn cắp hơn hai chục con gà nhà bà, mày về mày vỗ béo để nhồi đường cong cho con vợ mày, à à, mày vẽ nữa đi, mày tô nữa đi. Mày tô, mày vẽ, mày nhồi cho đến khi đường cong con vợ mày nó nứt toát, nó gẫy khúc ra, chọc xiên chọc xẹo đi, rồi đi lên đi xuống nữa vào, rồi có ngày con vợ mày sẽ hạ vuông góc một mạch thẳng xuống nóc tủ... Thôi con ạ! Ái chà chà… mày tưởng mày dùng cả Topo học mày vẽ thòng lọng mày bắt gà nhà bà mà được à!!!


http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200607/original/images1048399_14.jpg

Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền...!!!




Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.

http://www2.vietbao.vn/images/vn45/van-hoa/45241870-p15faa2.jpg

Quyết chí tu thân,
Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.
Khi nên Trời giúp công cho,
Làm trai năm liệu bẩy lo, mới hào!



...đạo cha đức mẹ,
con xem bằng non Thái thêm xuân,
Cha vun trồng, mẹ xây đắp nên nhân...


Công nuôi nấng gọi là một chút
Viếng thăm thay mặt buổi thần hôn .

Thiếu niên sơ đăng lệ
Hoàng gia đắc ý hồi
Võ môn tam cấp lãng,
Bình địa nhất thanh lôi.
Tôi, Kim Nham vừa chiếm tam khôi,
Cho bõ lúc thư trung càn khổ...


Bảng Thám hoa tay chiếm,
Chức Tri huyện quyết phong
Luật ngôn giả ngôn công,
Thỉnh tụng cầu vô tụng...

Ta, Ðại sở ngôi cao chính vị,
Lòng những mong lợi nước yên nhà ...
Vua trong chèo Nữ tú tài cũng nói lối xưng danh rành rẽ
Nối ngôi trời sửa trị,
Trẫm hoàng đế Tống vương
Uy ra đẹp dạ bốn phương,
Ðức xuống thấm thuần trăm họ...



Tạo hoá xoay vần
Qua cơn bĩ cực có ngày thái lai
Trời chung trời chẳng riêng ai
Vun trồng cây đức ắt tài nên nhân
Hễ ai có phúc có phần
Giàu nghèo tại số, gian truân bởi trời.


Ai ơi chơi lấy kẻo già
Măng mọc quá lứa duyên ta nhỡ thì.







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài đăng Phổ biến

Nhãn