Chiến thắng Kỷ Dậu (1789)
Hoàng đế nhà Tây Sơn
Khu tượng đài Quang Trung tại Gò Đống Đa.
-
- Đống Đa xưa bãi chiến trường
- Ngổn ngang xác giặc vùi xương thành gò
- Mùng 5 tết trận thắng to
- Gió reo còn vẳng tiếng hò ba quân
- Noi gương chiến đấu anh hùng
- Quang Trung sống mãi trong lòng chúng ta
- Thánh Nam thập nhị kình nghê quán
- Chiến điệu anh hùng đại võ công
Dịch là:
- Thánh nam xác giặc mười hai đống
- Ngời sáng anh hùng đại võ công
Tảng đá khắc câu nói của Quang Trung
khi ra lệnh tiến quân ra Bắc đánh quân Thanh.
Đền Quán Cháo ở phòng tuyến Tam Điệp
nơi gắn với câu chuyện người con gái dâng cháo cho nghĩa quân Tây Sơn
.
Gươm và súng của quân đội nhà Tây Sơn
Thần tốc bắc tiến
Quân Tây Sơn do Đại tư mã Ngô Văn Sở, theo mưu kế của Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích và các mưu thần khác, chủ động rút quân về đóng ở Tam Điệp - Biện Sơn cố thủ chờ lệnh.
Nghe tin báo, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm 1788), Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Để lấy danh nghĩa chính thống, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung.
Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26 tháng 12 năm 1788), đại quân của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng, nâng quân số lên tới 10 vạn,[38][39] tổ chức thành 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân, ngoài ra còn có một đội tượng binh gồm 200 voi chiến. Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ tinh thần và ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Mãn Thanh. Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà.
Tôn Sĩ Nghị coi thường quân Tây Sơn, sau nghe lời các tướng của Chiêu Thống thì có lo đôi phần, hẹn mồng 6 Tết ra quân đánh Tây Sơn.
Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân (15 tháng 1 năm 1789), đại quân của Quang Trung đã ra đến Tam Điệp. Sau khi xem xét tình hình, Quang Trung hẹn ba quân ngày mồng 7 Tết sẽ quét sạch quân Thanh, vào ăn Tết ở Thăng Long.
Quang Trung chia quân làm 5 đạo. Một cánh do đô đốc Long chỉ huy từ làng Nhân Mục tập kích đồn Khương Thượng và phía Tây Thăng Long. Cánh đô đốc Bảo tiến đánh các đồn phía Nam Thăng Long. Trung quân do đích thân Quang Trung chỉ huy, phối hợp với đô đốc Bảo đánh diệt các đồn phía Nam Thăng Long. Cánh đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc theo đường biển ra Bắc, chặn đường lui của địch ở phía Bắc sông Nhị Hà và huyện Phượng Nhãn.
Đêm 30 tháng Chạp âm lịch, quân Tây Sơn đánh diệt đồn Gián Khẩu của các tướng Lê Chiêu Thống. Sau đó Quang Trung đánh diệt các đồn Nguyệt Quyết, Nhật Tảo, dụ hàng được đồn Hà Hồi. Đêm mồng 4 Tết, Quang Trung tiến đến trước đồn lớn nhất của quân Thanh là Ngọc Hồi nhưng dừng lại chưa đánh khiến quân Thanh lo sợ, phần bị động không dám đánh trước nhưng cũng không biết bị đánh lúc nào. Trong khi đó cánh quân của đô đốc Long bất ngờ tập kích đồn Khương Thượng khiến quân Thanh không kịp trở tay, hàng vạn lính bỏ mạng. Chủ tướng Sầm Nghi Đống tự vẫn. Xác quân Thanh chết sau xếp thành 13 gò đống lớn,[40] có đa mọc um tùm nên gọi là gò Đống Đa.
Đô đốc Long tiến vào đánh phá quân địch phòng thủ ở Tây Long. Sáng mồng 5, Quang Trung mới cùng đô đốc Bảo tổng tấn công vào đồn Ngọc Hồi. Trước sức tấn công mãnh liệt của Tây Sơn, quân Thanh bị động thua chết hàng vạn, phần lớn các tướng bị giết.[41] Trong khi Quang Trung chưa đánh Ngọc Hồi thì Tôn Sĩ Nghị nghe tin đô đốc Long đánh vào Thăng Long, cuống cuồng sợ hãi đã bỏ chạy trước. Đến sông Nhị Hà, sợ quân Tây sơn đuổi theo, Tôn Sĩ Nghị hạ lệnh cắt cầu khiến quân Thanh rơi xuống sông chết rất nhiều làm dòng sông bị nghẽn dòng chảy. Trên đường tháo chạy, Tôn Sĩ Nghị bị hai cánh quân Tây Sơn của đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc chặn đánh, tơi tả chạy về. Lê Chiêu Thống hớt hải chạy theo Nghị thoát sang bên kia biên giới. Quân Tây Sơn đuổi theo và rao lên rằng sẽ đuổi qua biên giới đến khi bắt được Tôn Sĩ Nghị và Chiêu Thống mới thôi. Bởi thế dân Trung Quốc ở biên giới dắt nhau chạy làm cho suốt vài chục dặm không có người.[42][43] Như vậy, sớm hơn dự kiến, chỉ trong vòng 6 ngày, quân Tây Sơn đã đánh tan quân Thanh. Trưa mồng 5 Tết, Quang Trung tiến vào thành Thăng Long trong sự chào đón của nhân dân.
Ngô Ngọc Du là một nhà thơ đương thời, đã ghi lại không khí tưng bừng của ngày chiến thắng oanh liệt đó trong một bài thơ:
“ |
| ” |
Giai thoại về việc ra quân
Tương truyền,[44] trước khi ra quân đánh quân Thanh, tại lễ đăng quang ở Phú Xuân, Nguyễn Huệ lập kế để động viên quân sĩ.
Sau lúc làm lễ, Quang Trung sai mang đến cái mâm, trên để các đồng tiền, có phủ vải điều, rồi tuyên bố với quân sĩ:
- Ba quân hãy cùng ta quan sát, nếu cả hai trăm đồng tiền này đều sấp, thì đó là điềm trời báo chúng ta đại thắng. Nhược bằng, có đồng ngửa, thì đó là đại sự của chúng ta có điều trắc trở.
Nguyễn Huệ chắp tay khấn vái, đặng bưng mâm tiền, cung kính dâng lên cao, rồi hất tung xuống sân. Quân sĩ thấy các đồng tiền nhất loạt đều sấp, reo hò mừng rỡ, tin chắc trận ra bắc sẽ thắng quân Thanh.
Kỳ thực, Nguyễn Huệ đã sai đúc 200 đồng tiền có cả 2 mặt đều là mặt sấp.
Chính sách thời hậu chiến
Cháu của Nguyễn Huệ, Nguyễn Quang Hiển,
đang trình hòa ước lên các quan nhà Thanh
Bang giao với nhà Thanh
Hoàng đế Trung Hoa Càn Long
Từ trước khi giao chiến với quân Thanh, Quang Trung đã tính đến chiến lược ngoại giao với nhà Thanh. Theo phương lược vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, Tây Sơn nhanh chóng bình thường hóa bang giao với phương Bắc. Vua Thanh Càn Long đã cho sứ giả vào tận Phú Xuân để phong vương cho Nguyễn Huệ; rồi hoàng đế Quang Trung giả đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của Càn Long
| ” |
Phan Huy Ích tham gia sứ bộ cũng làm thơ có câu:
“ |
Ngọc Hân Hoàng hậu và Quang Trung Đại đế
Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công ?
Rộng cho chuộc được tuổi rồng,
Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi.
Lê Ngọc Hân ( 1770-1799) còn gọi Ngọc Hân Công Chúa là công chúa nhà Hậu Lê và hoàng hậu nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam, vợ của vua Quang Trung Nguyễn Huệ.
Lê Ngọc Hân là con gái thứ 9 vua Lê Hiển Tông. Mẹ bà là Chiêu Nghi Nguyễn Thị Huyền, người xã Phù Ninh, tổng Hạ Dương, phủ Từ Sơn - Bắc Ninh, là con gái trưởng của ông Nguyễn Đình Giai.
Năm 1786, Nguyễn Huệ ra Bắc với chiêu bài "phù Lê diệt Trịnh". Diệt xong họ Trịnh, Nguyễn Huệ tới yết kiến vua Hiển Tông. Do sự mai mối của tướng Bắc Hà vào hàng Tây Sơn là Nguyễn Hữu Chỉnh, Ngọc Hân vâng mệnh vua cha kết duyên cùng Nguyễn Huệ. Khi đó bà mới 16 tuổi, còn Nguyễn Huệ 34 tuổi.
Vài ngày sau vua cha Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi. Lê Ngọc Hân nghĩ anh thân hơn cháu nên ủng hộ anh là Lê Duy Cận lên ngôi, nhưng bị tông tộc nhà Lê phản đối vì muốn lập hoàng thái tôn Lê Duy Kỳ - con của thái tử Duy Vĩ bị chúa Trịnh Sâm giết hại - lên ngôi. Do áp lực của tông tộc, Ngọc Hân phải nghe theo. Lê Duy Kỳ được lập, tức là vua Chiêu Thống.
Ít lâu sau bà theo Nguyễn Huệ về Thuận Hóa.
Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế trước khi ra Bắc lần thứ ba để diệt quân Thanh, lấy niên hiệu Quang Trung, phong Ngọc Hân làm Hữu Cung Hoàng hậu.
Năm 1789, sau khi đại thắng quân Thanh, Nguyễn Huệ lại phong bà làm Bắc Cung Hoàng Hậu. Bà có 2 con với Nguyễn Huệ là công chúa Nguyễn Ngọc Bảo và hoàng tử Nguyễn Quang Đức.
Năm 1792, Quang Trung hoàng đế đột ngột băng hà. Bà viết bài Tế vua Quang Trung và Ai Tư Vãn để bày tỏ nỗi đau khổ cùng cực cũng như nỗi tiếc thương vô hạn cho người chồng anh hùng vắn số.
Hoàng thái hậu yểu mệnh
Quang Trung mất, Quang Toản là con bà Chính cung hoàng hậu Phạm Thị Liên lên thay, tức là Cảnh Thịnh đế.
Theo bài "Danh nhân Lê Ngọc Hân" của Chu Quang Trứ, Lê Ngọc Hân đưa con ra khỏi cung điện Phú Xuân, sống trong chùa Kim Tiền (Dương Xuân ở Huế) cạnh điện Đan Dương để thờ chồng nuôi con. Bà gượng sống đến ngày mồng 8 tháng 11 năm Kỷ Mùi (4-12-1799) thì mất, lúc đó mới 29 tuổi.
Lễ bộ Thượng thư Ðoan Nham hầu nhà Tây Sơn là Phan Huy Ích đă phụng chỉ soạn bài văn tế cho vua Cảnh Thịnh, cho các công chúa, cho bà Nguyễn Thị Huyền, cho các tôn thất nhà Lê và cho họ ngoại ở làng Phù Ninh tế Ngọc Hân. Hoàng đế Cảnh Thịnh đích thân đọc trước linh sàng Hoàng thái hậu họ Lê. Bà được truy tặng là Như Ý Trang Thuận Trinh Nhất Vũ Hoàng Hậu. Cả năm bài văn trên còn chép trong sách Dụ Am văn tập[1].
Triều đình Cảnh Thịnh lục đục và suy yếu, ngày càng bị Nguyễn Ánh đe dọa. Hai con bà phải đổi sang họ Trần. Nhưng với sự sụp đổ của triều Tây Sơn, theo tộc phả họ Nguyễn Đình, ngày 18 tháng 11 năm Tân Dậu (23-12-1801) hoàng tử Nguyễn Quang Đức mất khi mới 10 tuổi, rồi ngày 17 tháng 4 năm Nhâm Tuất (18-5-1802) công chúa Ngọc Bảo cũng mất khi mới 12 tuổi.
Lê Ngọc Hân
Mẹ bà Ngọc Hân là vợ một ông vua (Lê Hiển Tông), bản thân bà Ngọc Hân cũng là vợ một ông vua khác (Quang Trung).
Xưa nay vợ vua có ba loại. Loại thứ nhất là những bà vợ quê từ thưở hàn vi của những ông sau này làm vua (tất nhiên đó là những ông vua đầu triều, như Lê Lợi, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ)- những bà này thuộc dạng anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang nên không nhất thiết phải xinh đẹp.
Loại thứ hai là những bà trở thành vợ vua do hôn nhân chính trị, chẳng hạn như ông vua lấy con gái hay em gái của 1 viên tướng có thế lực nào đó mà đôi khi vua cũng phải gờm. Những bà này thuộc dạng nhà mặt phố, bố làm to nên cũng không nhất thiết phải xinh đẹp (ví dụ mấy bà con gái các ông Lê Sát, Lê Ngân… làm vợ vua Lê).
Loại thứ ba là loại phổ biến, trở thành vợ vua vì có nhan sắc, được tuyển chọn. Loại này bắt buộc phải xinh đẹp rồi, trừ trường hợp nhà vua và đám cán sự văn thể mỹ có con mắt nghệ thuật quá sức độc đáo bất thường.
Quang Trung là vua đầu triều nên ông có một số bà vợ thuộc loại 1, Ngọc Hân là chiến lợi phẩm của cuộc bắc bình lần thứ nhất-tức là vợ thuộc loại 2, theo lý thuyết ở trên thì không nhất thiết phải có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành.
Nhưng bà mẹ của Ngọc Hân hoàng hậu lại là vợ loại 3 của 1 ông vua, Ngọc Hân phải có nét nào đó giống mẹ, chắc không thể xấu được.
Cho nên dù nền hội họa nước nhà thời Tây Sơn không lưu lại tấm chân dung của hoàng hậu Ngọc Hân, ta vẫn có thể phỏng đoán rằng bà Ngọc Hân nếu không có cái nhan sắc làm khuynh đảo chính trường kiểu bà Đặng Thị Huệ thì ít ra cũng phải dễ nhìn, ít ra cũng phải đẹp hơn chân dung của bà trên trang web hungsuviet mà Cavenui post lại ở trên.
Sử xưa chỉ thiên về kể lể những âm mưu cung đình, những trận chiến đầu rơi máu chảy nên chép về quan hệ Quang Trung-Ngọc Hân không nhiều, chi tiết nhất có lẽ chỉ có cuốn Hoàng Lê Nhất Thống Chí thuật lời Nguyễn Huệ khi nghe lời mối mai, đại ý anh hùng dân tộc nói rằng nếu chiến lợi phẩm của cả 1 cuộc viễn chinh chỉ là đàn bà thể nào trẻ con nó cũng cười cho, nhưng mới biết có gái miền Nam nay thử gái Bắc một lần chắc cũng sảng khoái. Tâm trạng Nguyễn Huệ như vậy rất người, rất dễ hiểu. Còn Ngọc Hân công chúa lá ngọc cành vàng khi đó có tình cảm sâu đậm với viên tướng võ biền người xứ Bình Định nói giọng miền trung nằng nặng, nhiều từ lạ, đã thế lại là người đập phá tan tành cái cơ nghiệp của họ nhà mình hay không, chẳng có sách sử nào chép cả.
Sự bỏ trống của sử cũ là cơ hội tốt để sử mới sáng tạo, thêm thắt.
Từ thời tiền chiến đã có giả thuyết về Ngọc Hân-hoàng hậu 2 vua. Theo thuyết này, sau khi Gia Long vào được Phú Xuân, đã đưa Ngọc Hân vào cung, bất chấp sự can ngăn của Lê Văn Duyệt rằng không nên lấy vợ thừa của giặc. Gia Long giả lời rằng cả giang san này ông ta lấy từ tay Nguyễn Huệ thì sao không được lấy 1 người đàn bà đẹp từ tay Huệ. Vào cung, Ngọc Hân sinh cho Gia Long 2 con và bị người đời chê trách: “Số đâu có số lạ đời/ Con vua mà lại 2 đời chồng vua”. Giả thuyết được lưu truyền này lần đầu tiên được ghi lại bằng chữ Hán trên tạp chí Nam Phong số 103, năm 1926 trong bài “Ngọc Hân công chúa dật sự”, sau đó nó được Phạm Việt Thường thuật lại trong tập san BAVH năm 1941 dưới nhan đề “Les caprices du génie des Mariages ou extraordinaire destinée de la princesse Ngoc Han”.
Theo nhà nghiên cứu lịch sử Đỗ Bang (Những khám phá về hoàng đế Quang Trung-NXB Thuận Hóa, 1994) câu ca được lưu truyền về hoàng hậu 2 vua thật ra là nói về Ngọc Bình, em gái Ngọc Hân. Một số ghi chép của các sĩ quan Pháp theo chân Gia Long vào thành Phú Xuân cho biết trong số những người bị bắt có con cái của công chúa Bắc Kỳ chứ không có vị công chúa nổi tiếng này. Và gia phả họ ngoại bà Ngọc Hân ở Bắc Ninh cũng cho biết bà đã chết năm 1799, tức là 2 năm trước khi Phú Xuân đổi chủ và cũng là năm Phan Huy Ích soạn 1 bản văn tế hoàng hậu có lưu trong Dụ Am thi tập của ông.
Đỗ Bang kết luận chuyện tình Ngọc Hân-Gia Long chỉ là chuyện đơm đặt của hậu thế, Ngọc Hân đã chết từ trước khi Gia Long vào được Phú Xuân.
Miền Nam giai đoạn 54-75 lại có thuyết về việc Ngọc Hân đã giết chết Quang Trung vì yêu, ghen và hận.
Đỗ Bang thuật lại vụ này trong cuốn Những khám phá về hoàng đế Quang Trung như sau:
Năm 1961 ông Nguyễn Thượng Khánh công bố trên 4 số tạp chí Phổ Thông bài “Vua Quang Trung chết vì 1 liều độc dược của Ngọc Hân công chúa”. Ông Khánh nhận mình thuộc chi phái Lê Duy Mật của hoàng tộc nhà Lê phải đổi họ dưới thời Nguyễn và kể lại sự thật lịch sử căn cứ vào gia phả của dòng họ: “Tôi quy tội cho Ngọc Hân là người ở trong dòng họ chúng tôi gây nên… vì lương tâm của 1 người đứng hẳn về phía nhân dân chép sử, tôi có bổn phận nêu ra 1 bí ẩn… mà tôi có tội với tiền nhân họ Lê của chúng tôi, tôi cũng đành cam chịu vậy”. Ông Khánh cho là, sau khi nghe tin vua Càn Long nhà Thanh hứa gả 1 công chúa cho Quang Trung, “trong phút uất ức và cuồng chí, Ngọc Hân đã bỏ thuốc độc vào rượu cho Quang Trung uống” và cuối cùng “đã giết chồng do 1 phút bồng bột vì quá ghen”.
Nhưng sau đó ông Khánh lại biện minh cho Ngọc Hân dẫu có giết chồng vì ghen nhưng thực ra cũng vì yêu nước, sợ giang sơn về tay TQ nếu Quang Trung thành rể vua Thanh (biết đâu con của Quang Trung và công chúa Thanh sau này lên làm vua lại không dâng nước Việt về cho quê mẹ?).
Bài viết của ông Khánh đã gây phản ứng mạnh mẽ của con cháu họ Lê. Hết người này đến người khác đưa các tộc phổ, phổ ý các họ nội, ngoại nhà mình ra phản bác các chi tiết trong bài của ông Khánh. Họ nhận định ông Khánh chưa hẳn đã thuộc dòng dõi Lê Duy Mật vì một số thông tin nhầm lẫn về dòng tộc, chi tiết đắt giá nhất về việc bỏ thuốc độc không có dẫn chứng, có thể chỉ là sự tưởng tượng của ông…
11/61 ông Khánh đã phải ra Đà Nẵng tìm gặp những bà con thân tộc để đối chiếu gia phả, xác minh lại một số nội dung cho cẩn thận hơn. Cuộc bút chiến dừng lại với phần thua thuộc về ông Khánh, nhưng mối hoài nghi từ bài viết của ông chưa bị đánh tan. Một nhà sử học xịn của miền Nam là Nguyễn Phương năm 1968 vẫn còn nhắc đến ý kiến của ông Khánh một cách rụt rè: “Nhưng lại có dư luận rằng, ông (Quang Trung) đã bị đầu độc và con người bị tình nghi đã chủ trương vụ sát nhân đó chính là Bắc cung Hoàng hậu. Sự thật thế nào, khó mà phán quyết được”.
Nếu như dưới thời Pháp thuộc và dưới chế độ cộng hòa ở miền Nam Việt Nam, các nhà sáng tạo có thiên hướng tạo ra những gì giật gân, câu khách kiểu kinh tế thị trường không định hướng XHCN thì ở miền Bắc, các nhà sáng tạo rất có ý thức xây dựng những nhân vật lịch sử người tốt việc tốt mang tính điển hình. Tình cảm giữa Quang Trung và Ngọc Hân công chúa qua ngòi bút các nhà văn sử đỏ trở nên đậm đà, rất chi là con người mới XHCN.
Đó là chuyện cành đào Quang Trung gửi tặng Ngọc Hân.
Từ lâu, qua rất nhiều cuốn sách kể chuyện lịch sử cho thiếu nhi, ta biết chuyện Quang Trung sau khi chiến thắng quân Thanh dịp Tết Kỷ Dậu, thương người vợ Bắc là Ngọc Hân giờ xa quê, xa chồng, đang ở Phú Xuân đã sai người mang cành đào đất Bắc về cho vợ mừng xuân. Thật lãng mạn, thật tinh tế và cũng thật có ý nghĩa.
Chỉ có điều những cuốn sách này không nói làm thế nào có thể vận chuyển được cành đào như thế từ Hà Nội vào Huế ở thời ấy mà hoa không tàn rụng.
Nghe đồn rằng đây là sáng tác của nhà viết kịch Trúc Đường, chẳng hiểu sao sau đó nhiều nhà nghiên cứu nhận lầm rằng đó là sự thật lịch sử và câu chuyện cành đào đất Bắc anh tặng em cứ thế được tái bản dưới nhiều hình thức.
Ngọc Hân lấy Quang Trung là 1 cuộc hôn nhân chính trị. Dẫu nàng không lên xe hoa lần nữa với kẻ thù của chồng, dẫu nàng không giết chồng như những câu chuyện ly kỳ được kể dưới chế độ cũ thì cũng không có bằng cớ gì về tình cảm nồng thắm của nàng với người chồng xứ lạ. May ra có được 1 thứ làm chứng về tình cảm của nàng, đó là bài thơ Ai tư vãn. Với điều kiện phải chứng minh được những dòng thơ đó do chính nàng viết ra chứ không phải là thơ của đám thư ký viết cho nàng đặt bút ký tên.
Hoài cảm về tình sử Ngọc Hân - Nguyễn Huệ
Nguồn tình chắc chẳng chút vơi đâu là
("Ai tư vãn" - Lê Ngọc Hân)
Tháng ngâu năm Bính Ngọ 1786, chỉ sau 10 ngày tung hoành chiến trận (từ 11.7.1786 đến 21.7.1786), Nguyễn Huệ đã vào Thăng Long, hoàn thành sứ mạng "phù Lê diệt Trịnh" thống nhất đất nước. Cũng chỉ hơn 10 ngày sau, Nguyễn Huệ đã trở thành con rể vua Lê Hiển Tông. Ai biết đâu giữa tháng Ngâu đầy nước mắt của huyền thoại Ngưu Lang - Chức nữ, tháng ám ảnh của những sự chia xa đôi lứa, tháng kiêng kỵ hợp hôn trai gái, năm Bính Ngọ ấy lại tưng bừng một lễ cưới giữa Nguyễn Huệ - vị tướng trẻ của phong trào nông dân phương Nam với Ngọc Hân công chúa cành vàng lá ngọc miền Kinh Bắc. Có lẽ vì thế mà ẩn sâu trong vô thức của sự kiện ấy là lời tiên tri đầy bi kịch cho cuộc tình duyên này.
Khởi nguồn của cuộc tình duyên giữa hai kỳ mưa ngâu ngày ấy chỉ là ý định làm vui lòng Nguyễn Huệ của vua Lê Hiển Tông. Tín hiệu từ ý đồ đó được phát ra và gặp ngay sự thích thú "cái lạ" trong năng lực ham muốn của Nguyễn Huệ: "...Ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc Hà. Nay cũng nên thử một chuyến xem có tốt không?" (Hoàng Lê nhất thống chí).
Không biết trong tuần trăng mật trùng với tuần mưa ngâu thứ hai của tháng Ngâu ngày ấy, họ đã nói gì với nhau, đã trao gì cho nhau. Mà sau vẻn vẹn sáu năm có nhau trong đời, "Ai tư vãn" của Ngọc Hân công chúa sau ngày Nguyễn Huệ mất ít lâu đã trở thành một cứ liệu cho ta ngẫm nghĩ về một tình yêu giữa hai người. Khác với hôm nay yêu rồi mới cưới, tình yêu của Nguyễn Huệ với Ngọc Hân công chúa đã đến sau đám cưới, sau những ngỡ ngàng dặt dìu của hoan lạc. Đấy là cuộc gắn liền sông núi Việt Nam sau hai thế kỷ phân tranh Trịnh Nguyễn. Đấy là cuộc hợp hôn giữa tinh thần thượng võ với vẻ đẹp văn chương. Đấy là âm nhạc sau cuộc gặp gỡ giữa tiết tấu phương Nam và giai điệu Kinh Bắc.
Tôi đã sống qua nhiều kỳ mưa buồn ở Huế. Đôi khi cứ thầm nghĩ đấy là mưa Ngâu định mệnh của cuộc tình duyên này rớt lại qua lịch sử. ý thức khéo bày đặt ra lễ cưới. Nhưng vô thức lại thắp sáng lên một tình yêu. Lại sắp xếp cho một chàng trai vùng Quy Nhơn đến gặp cô gái vùng Kinh Bắc ở Thăng Long, đưa họ về chung sống bên dòng sông Hương và núi Ngự Bình thì nếu nói theo danh từ hôm nay là do "hoàn cảnh công tác". Song chắc là có gì dịch chuyển sâu lắm, linh thiêng lắm trong cõi con người mới làm nên được bất ngờ cho số phận tạo ra bi kịch cho cuộc sống. Người vợ ấy chỉ có thể yêu chồng mình đến như "Ai tư vãn", vì đối với Ngọc Hân, Nguyễn Huệ là một thế giới đồ sộ, bề bộn của tinh thần thượng võ mà bà suốt đời kinh ngạc không sao hiểu hết, nhưng luôn luôn phát hiện ra mới mẻ.
Còn người chồng ấy đã yêu vợ đến tận cùng dịu dàng, một ứng xử thật khó đòi hỏi ở một võ tướng, vì đối với Nguyễn Huệ, Ngọc Hân là một thế giới huyền diệu của nền văn hoá Kinh Bắc mà ông thực lòng ngưỡng mộ bằng một trí tuệ rũ sạch mọi mặc cảm.
Ở Huế, cứ đi với trời xanh, núi non và sông nước, có lúc thấy thấm ướt một cái gì không rõ rệt. Cứ thế tự nhiên mà đồng cảm với nhịp song thất lục bát. Cái thần nhịp ấy đã sắp xếp vào bài thơ tưởng nhớ người đã khuất bao cảnh trí của Huế đã được khóac một nỗi buồn của tình yêu. Nào là mái đông, lá buồm xuôi ngược mênh mang những nước cùng mây. Nào là nhạn sa lác đác, ngàn bạc mầu sương. Bất chợt lại thấy từ xa xăm điệu "Năm Bằng", "Nam Ai" rỉ ra những giọt nước mắt. Thiên nhiên đầy lên một niềm cô quạnh. Nếu không có tình yêu, làm sao có nổi "Ai tư vãn". Và với Nguyễn Huệ, chắc tình yêu ấy cũng thắp sáng hơn trí tuệ của người anh hùng. Ông không bao giờ được nghe bài thơ ấy nhưng chính tình yêu của ông đã giúp cho bà làm nên tác phẩm này.
Tình yêu của Nguyễn Huệ với Ngọc Hân đã rực lên rồi vụt tắt. Sáu năm có nhau kết thúc lại là một thiếu phụ hai mươi hai tuổi. Tình yêu ấy bi kịch đến tận cùng. Cũng vì quá yêu thương mà Ngọc Hân cũng không sống nổi qua tuổi ba mươi. "Kiếp này chưa trọn chữ duyên. Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương". Tình yêu ấy bi kịch đến tuyệt tự. Hai đứa con, tác phẩm của sáu năm lửa hương cũng ra đi sau cái chết của bố mẹ "Nào hay sông cạn, bể vùi. Lòng người giáo giở vận người biệt ly". Tình yêu này cũng như nhiều chuyện tình thời ấy... đã làm nứt rạn lễ giáo phong kiến cổ hủ, mọc lên những mầu xanh của tinh thần dân chủ.
Năm nay kỷ niệm chiến thắng Đống Đa của Nguyễn Huệ. Nhưng cũng trong khoảnh khắc mùa xuân này của hai trăm mười năm trước, giữa tiếng súng reo hò thắng trận, vị vua mới của nước Việt - Quang Trung hoàng đế - đã ngay lập tức chọn một cành đào Nhật Tân gửi về miền xa bức thư kỳ lạ cho người vợ yêu. Và khi ngựa thiên lý đã lên đường, vẫn có ai băn khoăn không biết trên dặm dài nắng gió miền Trung, cành đào có héo mất sự tươi thắm không? Có ai nghĩ tới ở miền Phú Xuân xa, một người vợ ngồi hiu hắt phòng tiêu lạnh lẽo, nghe gió lùa trước thềm lan đến héo hon? Dù mùa xuân đã đến thì trong tình yêu của bà vẫn rỉ rắc cơn mưa Ngâu định mệnh. Và sau sáu năm có nhau ngắn ngủi, cơn mưa ấy rơi triền miên trong cuộc đời goá bụa của bà thêm bảy năm nữa. Sau đó, nó còn theo bà vào cõi vô cùng. Cơn mưa ấy, bà gửi lại đời đời trong "Ai tư vãn".
Mùa xuân thật không muốn nói buồn. Nhưng tình sử đầy bi kịch của Nguyễn Huệ với Ngọc Hân không có gì vui hơn được. Có điều vui chăng là, tình yêu đầy bi kịch ấy đã tạo ra cho tuổi xuân của hai người trở thành bất tử. Nó mãi mãi là một tình sử đáng ghi nhớ trong đời sống của cộng đồng người Việt cách đây hai thế kỷ. Nó còn ấm trong tình yêu của chúng ta hôm nay. Và mãi mãi...
Ai Tư Vãn - Ngọc Hân Hoàng Hậu
Trước thềm lan, hoa héo ron ron.
Cầu Tiên khói tỏa đỉnh non,
Xe rồng thăm thẳm, bóng loan dàu dàu.
Nỗi lai lịch dễ hầu than thở
Trách nhân duyên mờ lỡ cớ sao?
Sầu sầu, thảm thảm xiết bao...
Sầu đầy giạt bể, thảm cao ngất trời
Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc,
Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương.
Rút dây vâng mệnh phụ hoàng,
Thuyền lan chèo quế thuận đường vu quy.
Trăm ngàn dặm quản chi non nước;
Chữ "nghi gia" mừng được phải duyên.
Sang yêu muôn đội ơn trên,
Rỡ ràng vẻ thúy, nối chen tiếng cầm.
Lượng che chở, vụng lầm nào kể.
Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời.
Dẫu rằng non nước biến dời,
Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là.
Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội,
Khắp tôn thân cùng đội ơn sang.
Miếu đường còn dấu chưng thường,
Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh.
Nhờ hồng phúc, đôi cành hòe quế
Đượm hơi dương dây rễ cùng tươi
Non Nam lần chúc tuổi trời,
Dâng câu Thiên Bảo, bày lời Hoa Phong.
Những ao ước trập trùng tuổi hạc,
Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui.
Nào hay sông cạn, bể vùi,
Lòng trời giáo giở, vận người biệt ly.
Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết,
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên.
Xiết bao kinh sợ, lo phiền,
Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu.
Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước,
Phương pháp nào đổi được cùng chăng?
Ngán thay, máy Tạo bất bằng,
Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan.
Cuộc tụ, tán, bi, hoan kíp bấy,
Kể sum vầy đã mấy năm nay?
Lênh đênh chút phận bèo mây,
Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu?
Trằn trọc luống đêm thâu, ngày tối,
Biết cậy ai dập nỗi bi thương ?
Trông mong luống những mơ màng,
Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say.
Khi trận gió hoa bay thấp thoáng,
Ngỡ hương trời bãng bãng còn đâu:
Vội vàng sửa áo lên chầu,
Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện giăng.
Khi bóng trăng, lá in lấp lánh,
Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi.
Vội vàng dạo bước tới nơi,
Thương ơi, vắng vẻ giữa trời tuyết sa!
Tưởng phong thể xót xa đòi đoạn,
Mặt rồng sao cách gián lâu nay,
Có ai chốn ấy về đây,
Nguồn cơn xin ngỏ cho hay được đành?
Nẻo u minh khéo chia đôi ngả,
Nghĩ đòi phen, nồng nã đòi phen.
Kiếp này chưa trọn chữ duyên,
Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương.
Nghe trước có đấng vương Thang, Võ,
Công nghiệp nhiều tuổi thọ thêm cao;
Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình!
Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn,
Công đức dày, ngự vận càng lâu;
Mà nay lượng cả, ơn sâu,
Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần.
Công dường ấy, mà nhân dường ấy,
Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công ?
Rộng cho chuộc được tuổi rồng,
Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi.
Buồn thay nhẽ, sương rơi gió lọt,
Cảnh đìu hiu, thánh thót châu sa.
Tưởng lời di chúc thiết tha,
Khóc nào nên tiếng, thức mà cũng mê.
Buồn thay nhẽ, xuân về hoa ở,
Mối sầu riêng ai gỡ cho xong,
Quyết liều mong vẹn chữ tòng,
Trên rường nào ngại giữa dòng nào e.
Con trứng nước thương vì đôi chút,
Chữ tình thâm chưa thoát được đi,
Vậy nên nấn ná đòi khi,
Hình tuy còn ở, phách thì đã theo;
Theo buổi trước ngự đèo Bồng Đảo,
Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân,
Theo xa thôi lại theo gần,
Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa.
Đương theo bỗng tiếng gà sực tỉnh,
Đau đớn thay ấy cảnh chiêm bao!
Mơ màng thêm nỗi khát khao,
Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi?
Tưởng thôi lại bồi hồi trong dạ,
Nguyệt đồng sinh sao đã kíp phai?
Xưa sao sớm hỏi khuya bày,
Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ.
Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ,
Tình cô đơn, ai kẻ xét đâu?
Xưa sao gang tấc gần chầu,
Trước sân phong nguyệt, trên lầu sính ca.
Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi,
Tin hàn huyên khôn hỏi thăm nhanh.
Nửa cung gẫy phím cầm lành,
Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ!
Nghĩ nông nỗi ngẩn ngơ đòi lúc,
Tiếng tử quy thêm giục lòng thương.
Não người thay, cảnh tiên hương,
Dạ thường quanh quất, mắt thường ngóng trông.
Trông mái đông: lá buồm xuôi ngược,
Thấy mênh mông những nước cùng mây,
Đông rồi thì lại trông tây:
Thấy non cao ngất, thấy cây rườm rà.
Trông Nam thấy nhạn sa lác đác,
Trông bắc thời ngàn bạc màu sương.
Nọ trông trời đất bốn phương,
Cõi tiên khơi thẳm, biết đường nào đi.
Cậy ai có phép gì tới đó,
Dâng vật thường xin ngỏ lòng trung,
Này gương là của Hán cung
Ơn trên xưa đã soi chung đòi ngày.
Duyên hảo hợp xót rày nên lẽ,
Bụng ai hoài vội ghẽ vì đâu?
Xin đưa gương ấy về chầu,
Ngõ soi cho tỏ gót đầu trông ơn.
Tưởng linh sảng nhơn nhơn còn dấu,
Nỗi sinh cơ có thấu cho không?
Cung xanh đang tuổi ấu xung
Di mưu sao nỡ quên lòng đoái thương?
Gót lân chỉ mấy hàng lẫm chẫm
Đầu mũ mao, mình tấm áo gai,
U ơ ra trước hương đài,
Tưởng quang cảnh ấy chua cay lòng này.
Trong sáu viện ố đào, ủ liễu
Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm nghê
Long đong xa cách hương quê,
Mong theo: lầm lối, mong về: tủi duyên.
Dưới bệ ngọc hàng uyên vò võ
Cất chân tay thương khó xiết chi.
Hang sâu nghe tiếng thương bi,
Kẻ sơ còn thế, huống gì người thân.
Cảnh ly biệt nhiều phần bát ngát,
Mạch sầu tuôn ai tát cho vơi?
Càng trông càng một xa vời,
Tấc lòng thảm thiết, chín trời biết chăng?
Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi,
Gương Hằng Nga đã bụi màu trong.
Nhìn gương càng thẹn tấm lòng,
Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà.
Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn,
Cánh hải đường đã quyện giọt sương.
Trông chim càng dễ đoạn trường
Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi.
Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy
Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu?
Phút giây bãi bể nương dâu,
Cuộc đời là thế biết hầu nài sao?
Chữ tình nghĩa trời cao, đất rộng,
Nỗi đoạn trường còn sống còn đau.
Mấy lời tâm sự trước sau,
Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho.
Khôn ngoan giữa đám ba bề. Đừng cho ai lận chớ hề lận ai.
Huyền Trân công chúa
Đổi chác khôn ngoan khéo nực cười,
Vốn đà không mất lại thêm lời,
Hai châu Ô Lý vuông ngàn dặm,
Một gái Huyền Trân của mấy mươi !
Lòng đỏ khá khen lo việc nước,
Môi son phải giống mãi trên đời.
Châu đi rồi lại châu về đó,
Ngơ ngẩn nhẩn nhau mấy đứa Hời.
CHÙA KIM TIÊN
Thăm chùa Kim Tiên: Qua “Ai tư vãn” của Công chúa Ngọc Hân
Thăm chùa Kim Tiên: Qua “Ai tư vãn” của Công chúa Ngọc Hân
Bởi vậy, ngày nay đọc “Ai tư vãn” chúng ta thấy thấp thoáng một ngôi chùa Kim Tiên vừa xinh đẹp như cõi tiên nhưng cũng vừa đượm buồn:
Nọ trông trời đất bốn phương
Cõi tiên khơi thẳm biết đường nào đi.
Hoặc là:
Não người thay cảnh tiên hương
Dạ thường quanh quất,
mắt thường ngóng trông.
Ngày ngày Bắc Cung hoàng hậu Ngọc Hân ra đứng trước cây “cầu Tiên” ngóng chờ Nguyễn Huệ trong cảnh buồn vời vợi và chứa chan kỷ niệm.
Gió hiu hắt phòng tiêu lạnh lẽo,
Trước thềm lan hoa héo ron ron
Cầu Tiên khói tỏa đỉnh non
Xe rồng thăm thẳm bóng loan rầu rầu.
Đến nay, chùa Kim Tiên từng bước tu sửa, làm mới thêm nhiều hạng mục như chánh điện, nhà Tổ, Quan Âm các, Tăng xá, trai đường, nhà trù (nhà bếp) trở thành một hệ thống kiến trúc thiền tự hoàn chỉnh khang trang, bề thế có tiếng ở Huế.